Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
Nhật Bản không chỉ là một thị trường lớn trên thế giới, mà còn là một thị trường gần gũi về mặt địa lý và có nhiều điểm tương đồng về văn hoá đối với Việt Nam. Nhật Bản từ trước đến nay vẫn là một trong các thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam về mặt hàng thủ công mỹ nghệ và cũng có nhiều hứa hẹn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Hàng thủ công mỹ nghệ - một trong nhóm những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc - đã và đang được thị trường Nhật Bản đánh giá cao và có tiềm năng xuất khẩu mạnh. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, lượng hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản vẫn chưa cân xứng với tiềm năng mà nó vốn có. Vì sao lại như vậy và cần làm gì để cải thiện tình hình đó?
Để góp phần tìm ra lời giải cho vấn đề này, ngày 17-01-2008, tại Hà Nội, Trung tâm Thông tin thương mại của Bộ Công Thương đã phối hợp với Hiệp hội xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam tổ chức Hội thảo: “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam với thị trường Nhật Bản”.
Hiện nay, trên cả nước có hơn 2.000 làng nghề thủ công, thu hút trên 13 triệu lao động; 1,4 triệu hộ gia đình tham gia sản xuất và hơn 1.000 doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất - xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Có thể nói, nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ hiện nay đang tạo ra nhiều công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn, đóng góp thêm vào giá trị sản xuất công nghiệp của địa phương và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Với truyền thống lâu đời trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, tiềm năng của Việt Nam trong sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường thế giới hiện nay là rất lớn.
1. Lợi thế phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam
Nhiều tham luận tại Hội thảo đã khẳng định: Sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã, đang và sẽ tiếp tục là hướng kinh doanh chủ đạo của nhiều làng nghề và công ty của Việt Nam vì: thứ nhất, đây là lĩnh vực kinh doanh có tiềm năng rất lớn, và nước ta có ưu thế với đầu vào là nguồn nguyên liệu trong nước rất dồi dào, chủ động, nguồn nhân công - thợ thủ công đông đảo, có tay nghề cao với kinh nghiệm truyền thống hàng trăm năm, chi phí lao động thấp, có thể nói, so với các ngành hàng khác thì hàng thủ công mỹ nghệ thuộc nhóm ít bị cạnh tranh nhất; thứ hai, đây là lĩnh vực đầu tư còn bỏ ngỏ, chưa có sự đầu tư lớn, tập trung, mà chỉ là các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún; thứ ba, đây là lĩnh vực đầu tư có hiệu quả cao. Vốn đầu tư khá nhỏ so với các ngành đầu tư khác, lợi nhuận trên đồng vốn đầu tư khá cao, số ngoại tệ thu về được hoàn toàn sử dụng trong nước; thứ tư, đây là lĩnh vực kinh doanh có ý nghĩa xã hội rất cao, vì mang lại công việc và thu nhập cho hàng vạn người, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam và thu về nguồn ngoại tệ không nhỏ cho đất nước. Đây còn là lĩnh vực đầu tư được Đảng và nhà nước quan tâm tạo điều kiện phát triển với nhiều ưu đãi; thứ năm, mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều chứa đựng sâu sắc tính nghệ thuật, nội dung văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam.
2. Những bất cập trong việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào thị trường Nhật Bản
- Khả năng tiếp cận thị trường Nhật Bản của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, thiếu thông tin về thị trường, về nhu cầu, sở thích của đối tượng khách hàng mà các doanh nghiệp hướng tới. Theo ông Ken Ara-ka-wa, đại diện Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Việt Nam (JETRO), Nhật Bản không phải là thị trường khó tính, chỉ có điều là người Việt Nam chưa tìm hiểu đúng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản mà thôi. Chẳng hạn: người Nhật có những đòi hỏi cao về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm; nhạy cảm với giá cả tiêu dùng hàng ngày, người Nhật quan niệm rằng giá rẻ đồng nghĩa với kém chất lượng, họ sẵn sàng trả tiền cho những sản phẩm sáng tạo, hàng có chất lượng tốt để thể hiện đẳng cấp và địa vị; nhạy cảm với những thay đổi về màu sắc, về mùa, kiểu dáng cũng như sự đã dạng của sản phẩm. Ý thức sinh thái của người Nhật hiện nay cũng tăng lên, vì thế các sản phẩm dùng một lần ngày càng ít được ưa chuộng.
- Sự nhỏ lẻ, manh mún, thiếu tập trung giữa các cơ sở sản xuất... dẫn đến việc bỏ lỡ những đơn đặt hàng lớn; chất lượng hàng hóa không ổn định.
- Khâu đào tạo nguồn nhân lực, quản lý lao động còn gặp nhiều hạn chế. Có một thực tế là nhiều doanh nghiệp không lo mất bạn hàng bằng việc mất lao động quen nghề, lành nghề. Bởi lẽ, lao động thủ công hiện nay đa số không có trình độ, khó đào tạo bài bản. Lao động có tay nghề sau một thời gian làm việc, tích lũy được kinh nghiệm lại tìm được chỗ làm mới có thu nhập cao hơn dù rằng cao hơn rất ít.
- Nguồn nguyên liệu khai thác không theo quy hoạch, đầu tư, khiến cho nguyên liệu tại chỗ trở nên cạn kiện và khan hiếm trầm trọng.
- Tác động của giá cả trên thị trường thế giới. Giá dầu trên thế giới tăng cao đã kéo theo các mặt hàng phụ kiện như keo, phụ gia, hóa chất tăng, tre, mây tăng, lương trả cho người lao động tăng... đẩy giá thành sản phẩm tăng, khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Nếu nhận hàng thì dễ thua lỗ, nếu không nhận hàng sẽ không giải quyết được công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động thủ công.
3. Một số gợi ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư vào thị trường Nhật Bản
- Nắm bắt thị hiếu của thị trường, sản xuất những mặt hàng càng gần với thị trường càng tốt, có phản ứng nhanh nhạy với khuynh hướng của người tiêu dùng, bám sát nguyên tắc cung tạo ra cầu.
- Cần định đúng giá thành sản phẩm dựa trên đặc điểm: người tiêu dùng Nhật Bản sẵn sàng trả tiền cho những mặt hàng giá cao nếu họ thấy nó là cần thiết, thỏa đáng.
- Coi trọng chữ “tín” trong kinh doanh.
- Duy trì chất lượng sản phẩm tốt và ổn định. Đây là một trong những yếu tố đảm bảo thành công cho những mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Các mặt hàng có chất lượng cao là cần thiết, nhưng điều quan trọng hơn là chất lượng của sản phẩm phải ổn định, không cần phải đưa ra những sản phẩm có chất lượng vượt quá yêu cầu sử dụng.
- Quan tâm đến thói quen, phong cách giao dịch của các doanh nghiệp Nhật Bản. Chẳng hạn, các doanh nghiệp Nhật Bản có phong cách làm việc, giao dịch rất nghiêm chỉnh, lễ nghi, tôn trọng nhau. Trong quá trình làm việc các doanh nghiệp Nhật Bản yêu cầu rất nghiêm túc và chặt chẽ với các các doanh nghiệp đối tác. Trong văn hoá kinh doanh giao tiếp với người Nhật, có 4 vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý coi trọng: cách chào hỏi nghiêm túc, đúng giờ, làm việc ngoài giờ và phải có danh thiếp.
4. Một số đề xuất
- Có những chuyển biến trong các giải pháp phát triển hàng thủ công mỹ nghệ cả ở tầm vi mô lẫn vĩ mô. Công tác thông tin về thị trường và xúc tiến thương mại cần có những cải tiến nhanh và cụ thể.
- Có sự đầu tư lâu dài, bài bản trong sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ như: phát triển nguồn nhân lực, nguồn nguyên liệu, mua sắm trang thiết bị để nâng cao năng suất lao động và đặc biệt là vấn đề giữ gìn, bảo vệ môi trường....
- Cải tiến thủ tục nộp thuế VAT và hoàn thuế cần sớm được giải quyết kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Việc khắc phục những hạn chế, vượt qua khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam trong sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không những sẽ mở ra cơ hội chiếm thêm thị phần Nhật Bản, mà điểm nữa, cũng không kém phần quan trọng là sẽ tự đổi mới được mình, vươn lên sản xuất chính quy, chuyên nghiệp, hiện đại theo đúng tiêu chuẩn quốc tế.
Chính sách tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế  (18/01/2008)
Chăn nuôi sẽ chiếm hơn 40% sản lượng nông nghiệp  (18/01/2008)
Việt Nam sẽ tiếp tục dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hạt tiêu  (18/01/2008)
Những biểu hiện đáng lo ngại của nền kinh tế Mỹ  (18/01/2008)
Những biểu hiện đáng lo ngại của nền kinh tế Mỹ  (18/01/2008)
Những chuyển động trong cuộc bầu cử Tổng thống tại Mỹ  (18/01/2008)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm