Yếu tố văn hóa và nhu cầu xã hội đã thúc đẩy ngành tiểu thủ công nghiệp phát triển. Đây cũng là một phần trong kế hoạch của Chính phủ Việt Nam để phát triển kinh tế trên tất cả các vùng, miền của đất nước, nhất là vùng nông thôn và tăng giá trị xuất khẩu. Chương trình “Sản xuất và thương mại xanh” nếu thực hiện thành công sẽ cung cấp nguyên liệu thô vào thị trường quốc tế, xác định lợi thế cạnh tranh và cơ hội mở rộng thị trường cho ngành tiểu thủ công nghiệp Việt Nam.

Tiềm năng nhiều, xuất khẩu chưa được bao nhiêu.

Theo ông Lê Bá Ngọc, Phó chủ tịch Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, ngành tiểu thủ công nghiệp đã tạo ra hàng triệu việc làm cho lao động địa phương, nâng cao mức sống và bảo tồn các nghề truyền thống. Việt Nam đã chiếm lĩnh thị trường quốc tế bằng sự đa dạng của các mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng như tay nghề của người thợ với các sản phẩm truyền thống bao gồm đồ nội thất, gỗ, gốm sứ, sơn mài, lụa, thêu, đồ trang sức...Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ không sánh được với ngành công nghiệp khác như dầu khí, dệt may... nhưng hàng thủ công mỹ nghệ có lợi thế là chi phí đầu tư thấp.

Hiện nay, toàn quốc có 723 làng nghề thủ công về mây tre với sự tham gia của 350.000 lao động. Các làng nghề thủ công mây tre của các dân tộc thiểu số như Khơ Mú, Thái, Tày, Nùng, La Hủ có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nghề mây tre Việt Nam. Các tỉnh, thành phố Hà Nội, Thái Bình, Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An và Quảng Nam có truyền thống lâu đời đối với mặt hàng này và có nhiều làng nghề nhất.
 
Nhiều doanh nghiệp và các hợp tác xã tham gia sản xuất chế biến thương mại và xuất khẩu các sản phẩm từ mây tre đan. Tuy vậy, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất chỉ ở quy mô nhỏ, sử dụng công nghệ và thiết bị lạc hậu nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao.

Bộ Công Thương cho biết, nếu như năm 2000, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam mới chỉ đạt 274 triệu USD, năm 2005 đạt 565 triệu thì năm 2007 đã đạt 820 triệu và dự kiến hết năm 2010 kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này sẽ đạt 1,5 tỉ USD.
 
Mặc dù có điều kiện thuận lợi nhưng ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các nước khác như Trung Quốc và Thái Lan. Ngoài ra, khách hàng nước ngoài cũng thường xuyên nhận xét về năng lực sản xuất hạn chế và thiếu hiểu biết về xu hướng thịt trường quốc tế của các nhà sản xuất thủ công mỹ nghệ Việt Nam, dẫn đến sản lượng thường chỉ đạt mức trung bình và lạc hậu về thiết kế mẫu mã.

Hướng tới quy trình sản xuất xanh, bền vững

Theo đại diện cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam, vấn đề nghèo đói và bất bình đẳng vẫn đang cần được tập trung giải quyết triệt để, nhất là ở vùng nông thôn, nơi có hơn 90% người nghèo ở Việt Nam. Tại nhiều khu vực, nguồn thu nhập từ nông nghiệp không đủ cho các gia đình vượt ngưỡng thu nhập nghèo của quốc gia là 200.000 đồng/người/tháng (khoảng 0,35 USD/ngày). Việc thu mua và xử lý các nguyên liệu thô tự nhiên và việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đóng vai trò là nguồn thu nhập chính. Thực tế, chính phần thu nhập thêm từ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và nguồn thu nguyên liệu thô lại là nguồn thu quyết định mức thu nhập của các gia đình.

Trên cơ sở đó, chương trình chung về “Sản xuất và thương mại xanh để tăng thu nhập và cơ hội việc làm cho người nghèo” được triển khai từ 1-2010 và dự kiến sẽ kết thúc vào tháng 12-2012. Đây là chương trình do Cục Xúc tiến thương mại chủ trì phối hợp với các cơ quan của Liên hiệp quốc thực hiện với tổng kinh phí hơn 4 triệu USD. Chương trình hướng vào mục tiêu nâng cao thu nhập cho người trồng, thu mua nguyên liệu thô, thợ thủ công, người sản xuất nội thất và sẽ hỗ trợ 4.800 nông dân nghèo và hộ gia đình ở 4 tỉnh phía Bắc là Thanh Hóa, Nghệ An, Hòa Bình và Phú Thọ. Những tỉnh này được lựa chọn theo tiêu chí tỷ lệ nghèo đói cao, là nơi tập trung các dân tộc thiểu số, mức độ tập trung nguyên liệu thô và sản xuất thủ công mỹ nghệ cao. Chương trình tập trung vào 5 ngành là mây tre, nuôi tằm và dệt lụa, cói, sơn mài và giấy thủ công.

Cách tiếp cận của chương trình là hỗ trợ người nghèo sản xuất trên cơ sở bền vững về môi trường. Đích hướng tới của chương trình nhằm giúp người trồng cải tiến sản phẩm, đồng thời, kết nối với thị trường với khả năng sinh lời cao hơn. Chương trình còn hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua giới thiệu quy trình sản xuất sạch (giảm thiểu hóa chất độc hại, rác thải và ô nhiễm), giới thiệu kỹ thuật tiên tiến và mô hình bền vững cho các doanh nghiệp, định hướng xuất khẩu và chế biến; đồng thời, củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa doanh nghiệp cơ sở, nâng cao kỹ năng kinh doanh.

Ông Đỗ Xuân Hạ, Phó cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, cho biết: từ khi thực hiện tới nay, chương trình đã hỗ trợ 8 công ty thuộc dự án, hoàn thiện điều tra toàn diện giũa nông dân và người sản xuất hàng thủ công gia dụng, phân tích khu thể chế cho phát triển kinh tế địa phương; tổ chức khảo sát học hỏi kinh nghiệp thâm canh cây mây ở tỉnh Thái Bình và nâng cao năng lực kinh doanh của các nhà xuất khẩu hành thủ công mỹ nghệ tại Hà Nội. Hy vọng, kết quả của chương trình sẽ tạo sự thay đổi sức cạnh tranh mang tính hệ thống của chuỗi giá trị từ đó cải thiện được thu nhập cho những đối tượng được hưởng lợi ; tăng năng suất trong sản xuất và nâng cao mức thu nhập và luôn tạo môi trường bền vững./.