Động thái CPI 9 tháng đầu năm 2010 ẩn chứa điều gì?
TCCSĐT - Chỉ số CPI trong 9 tháng đầu năm 2010 trải qua những tăng, giảm, thăng, trầm: đầu quý II, CPI giảm mạnh, và sau 5 tháng liên tiếp chỉ dao động với biên độ tăng dưới 0,3%, nhưng đến tháng 9, CPI đột nhiên tăng tới 1,31% so với tháng 8 và 6,46% so với tháng 12-2009. Điều gì ẩn giấu đằng sau động thái tăng, giảm đó?
Nhìn lại biến động của CPI có thể nói rằng, sự tăng giảm của CPI kể từ đầu năm đến nay vừa là hiện tượng bình thường, theo quy luật, và không ngoài dự đoán, nhưng đồng thời cũng cho thấy những nét khác thường cần được lường trước, xử lý.
Biến động của CPI trong thời gian qua là bình thường, bởi lẽ, thứ nhất, xu hướng tăng, giảm CPI về cơ bản, tương đồng với những năm trước theo đồ thị hình sin; cụ thể, CPI tăng vào những tháng sau Tết Nguyên đán, rồi giảm dần từ đầu quý II và lại tiếp tục tăng trở lại vào cuối quý III, đầu quý IV…
Thứ hai, tốc độ tăng giảm mạnh CPI vẫn diễn ra không đều giữa các địa phương và đạt đỉnh cao ở những địa phương - đô thị lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ ba, các nguyên nhân gây tăng giảm CPI về cơ bản vẫn tập trung vào những nhân tố quen thuộc, trước hết gắn với những sự tăng giảm nhu cầu tiêu dùng gắn với lễ, tết và sự điều chỉnh giá cả thị trường những hàng hóa đầu vào nhạy cảm trên diện rộng hoặc do tác động nhân - quả dây chuyền. Chẳng hạn, do mức tăng cao nhu cầu đối với dụng cụ, thiết bị giáo dục và chi phí giáo dục (ví dụ như học phí cho một học sinh tăng từ 8 nghìn đồng/tháng lên 40 nghìn đồng/tháng, tức là tăng 5 lần ở khu vực thành thị, với khu vực nông thôn thì lên hơn 20 nghìn đồng/tháng) trong thời gian khai giảng năm học mới.
Thứ tư, việc điều chỉnh tăng giá xăng dầu, giá nhập khẩu các mặt hàng thép, gas, đường; tỷ giá ngoại tệ, trước hết đối với USD; giá vàng và giá USD tăng... tạo hợp lực cầu mạnh, tác động đến chỉ số giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ văn hóa, du lịch, giải trí, giao thông vận tải, gạo xuất khẩu.
Cần nhấn mạnh rằng, việc điều chỉnh tăng tỷ giá ngoại tệ là một động thái cần thiết nhằm làm giảm áp lực tiêu cực của chênh lệch tỷ giá giữa đồng VNĐ với đồng USD và các đồng ngoại tệ khác trên thị trường chính thức và thị trường tự do, cũng như để phù hợp cơ chế quản lý tỷ giá chung trên thế giới và xu hướng giảm giá các đồng tiền này trong thời gian qua. Về tổng quát và lâu dài, việc điều chỉnh tỷ giá này có tác dụng tốt nhằm hạn chế, giải toả tình trạng găm giữ, cũng như kỳ vọng đầu cơ, góp phần cân đối theo nguyên tắc thị trường cung-cầu về ngoại tệ, kích thích xuất khẩu và tăng cường sản xuất trong nước, từ đó góp phần kiềm chế vững chắc lạm phát. Tuy nhiên, trong thời gian đầu và mức độ cục bộ, sự điều chỉnh tỷ giá này có thể ít nhiều làm tăng giá của hàng hoá và nguyên liệu nhập khẩu, do đó làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá, cũng như làm giảm lượng hàng nhập khẩu, từ đó có thể làm gia tăng áp lực lạm phát cung-cầu và chi phí đẩy.
Những điểm khác thường của động thái CPI thể hiện ở sự trồi sụt mạnh và đột ngột của chỉ số CPI tại mỗi bước ngoặt bản lề giảm hoặc tăng giữa các “pha trong chu kỳ” CPI. Hai là, là xu hướng “ngược dòng” với giá thế giới của giá cả một số mặt hàng có tính đặc thù cao trên thị trường như sữa, xăng, dầu, ngoại hối… Việc tăng giá sữa ở nhiều chủng loại mặt hàng thời gian gần đây, trong khi tồn kho của nhóm sản phẩm này tại thời điểm 1-8 so với cùng kỳ năm trước ở mức khá cao và giá sữa thế giới giảm trong tháng 8, cho thấy có hiện tượng tăng giá tâm lý và “tát nước theo mưa”.
Ba là, chỉ số giá bán của người sản xuất tăng cao hơn chỉ số giá tiêu dùng, với mức chênh lệch giữa hai chỉ số này là hơn 4%. Cả về lý thuyết và thực tế đều cho thấy, giá sản xuất tăng sẽ kéo theo tăng giá tiêu dùng. Nếu chỉ số giá sản xuất tăng cao hơn chỉ số giá tiêu dùng, có thể sẽ dẫn tới chỉ số giá tiêu dùng tăng vào chu kỳ sau. Nói cách khác, khi giá tăng chủ yếu do tăng giá từ người bán (trên thực tế, có tới 300 mặt hàng trong siêu thị đồng loạt tăng giá trong tháng 8-9/2010 - bằng khoảng ½ con số mặt hàng chọn mẫu tính CPI của ngành thống kê nếu không xét về chủng loại), chứ chưa hẳn do việc tăng cầu và tăng khả năng thanh toán của người tiêu dùng, thì điều này cũng đồng nghĩa với việc sức ép tăng giá còn tiềm tàng nếu có sự gia tăng tổng cầu và mất cân đối cung-cầu vào những tháng tới.
Với những yếu tố trên có thể nhận thấy, sức ép tăng chỉ số CPI của Việt Nam trong những tháng tới, nhìn chung, sẽ đa dạng, chịu tác động trực tiếp và gián tiếp do sự gia tăng các chi phí “đầu vào”; các yếu tố gắn với hệ quả hai chiều của các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng đã triển khai trong năm 2009 và còn tiếp diễn ở các mức độ khác nhau trong năm 2010; sự phục hồi nền kinh tế làm gia tăng các nhu cầu về nguyên vật liệu sản xuất dễ dẫn tới việc tăng giá các mặt hàng này…; kinh tế thế giới 2010 còn tiềm ẩn nhiều bất ổn trên thị trường hàng hoá và tài chính-tiền tệ, trong đó có xu hướng tiếp tục hoặc gia tăng biến động tỷ giá hối đoái của các đồng tiền chủ chốt và khủng hoảng nợ do thâm hụt ngân sách của nhiều nước như là hệ quả các gói kích thích kinh tế trong năm 2009 và kéo dài đến 2010.
Trước mắt, việc bình ổn và giảm giá trong thời gian tới có thể sẽ diễn ra do gắn với thời điểm thu hoạch lúa gạo ở miền Bắc và khả năng giá xăng dầu từ nay đến cuối năm sẽ không tăng…nhưng, để kiềm chế vững chắc các động thái lạm phát theo mục tiêu đề ra trong những tháng cuối năm và thời gian tới, Chính phủ đã chỉ đạo sát sao việc thực hiện đồng bộ những nhiệm vụ chủ yếu và các nhóm giải pháp lớn để khôi phục, phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Mức độ gia tăng và tác động của lạm phát đến đời sống kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó rất quan trọng là sự phối hợp đồng bộ, linh hoạt các chính sách và những yếu tố tâm lý xã hội khác của Việt Nam, trong đó có công tác dự báo, thông tin, yếu tố tin đồn và khả năng kiểm soát đầu cơ, lũng đoạn thị trường…Việc nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả đầu tư của Nhà nước; tăng cường công tác thông tin, dự báo và phản biện chính sách xã hội trước các biến động nhanh chóng của thị trường, nhất là mặt trái của những chính sách đang và sẽ triển khai góp phần quan trong giúp các cơ quan quản lý nhà nước nâng cao hiệu quả điều hành thực tiễn. Đồng thời, bám sát thực tiễn điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước sẽ giúp công tác dự báo thêm cơ sở tin cậy và mềm dẻo, chính xác hơn; phối hợp các hoạt động và cơ quan dự báo với giám sát, bao gồm cả giám sát chuyên ngành với giám sát hợp nhất, tổng thể toàn thị trường để cảnh báo sớm rủi ro và xử lý một cách hiệu quả những vấn đề mới phát sinh, nhất là các rủi ro chéo, tránh các đổ vỡ dây chuyền và bất ngờ…/.
Hậu khủng hoảng: Thất nghiệp và những hệ lụy  (14/10/2010)
Hậu khủng hoảng: Thất nghiệp và những hệ lụy  (14/10/2010)
Động thái CPI 9 tháng đầu năm 2010 ẩn chứa điều gì?  (14/10/2010)
Hướng tới 80 năm ngày truyền thống Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam  (14/10/2010)
Thủ tướng phê chuẩn bổ sung Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam  (13/10/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm