Ðầu tư cho y tế cơ sở (bao gồm y tế tuyến xã, phường, thị trấn và y tế thôn, bản) gắn với chăm sóc sức khỏe ban đầu và y tế dự phòng là biện pháp chăm sóc sức khỏe ít tốn kém, hiệu quả lâu dài và bền vững. Đây là điểm tựa bảo đảm công bằng y tế ở Việt Nam.

Vượt lên các khó khăn, thách thức, kể cả sự xuyên tạc, bóp méo, cản trở của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về y tế cơ sở và các chính sách liên quan của Nhà nước có tính nhất quán cao, không ngừng được phối hợp bổ sung, hoàn thiện trên cơ sở lấy con người là động lực và mục tiêu chủ yếu của quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước; mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, có quyền được bảo đảm an sinh xã hội, được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế...

Trên thực tế, Việt Nam đã sớm quan tâm phát triển mạng lưới y tế cơ sở, trong đó dấu ấn quan trọng là việc ban hành Quyết định số 950/QÐ-TTg về đầu tư xây dựng trạm y tế xã thuộc vùng khó khăn giai đoạn 2008 - 2010. Theo Bộ Y tế, ngay từ năm 2012, trên phạm vi cả nước 98,9% số xã đã có trạm y tế; 80% số xã, phường đã đạt Chuẩn quốc gia về y tế xã theo Quyết định số 370/2002/QÐ-BYT của Bộ Y tế áp dụng cho giai đoạn 2001 - 2010 (Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3447/QÐ-BYT về Bộ tiêu chí quốc gia y tế xã áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2020); gần 80% số trạm y tế có bác sĩ làm việc; 95,3% số trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi; 96,9% số thôn, bản ở khu vực nông thôn, miền núi đã có nhân viên y tế hoạt động. Nhiều trạm y tế được xây dựng khang trang, sạch đẹp và không chỉ đủ thuốc thiết yếu, mà còn được cấp các trang, thiết bị y tế cơ bản, như siêu âm, điện tim, máy xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm sinh hóa, máy đo đường huyết.... Khoảng 80% số trạm y tế cơ sở trên toàn quốc đã triển khai khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, với khoảng 20% số thẻ đăng ký khám, chữa bệnh ban đầu tại tuyến xã.

Năm 2012, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020; các cơ quan chức năng đã xây dựng Đề án “Thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân giai đoạn 2012 - 2015 và 2020” và Đề án “Phát triển y tế biển, đảo đến năm 2020”, với mục tiêu mở rộng tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế và bảo đảm quyền lợi người tham gia bảo hiểm y tế theo hướng công bằng, hiệu quả, chất lượng và phát triển bền vững. Cũng từ năm 2012, ngành y tế bắt đầu triển khai thực hiện Dự án Tăng cường năng lực y tế cơ sở một số tỉnh trọng điểm do tổ chức Liên minh toàn cầu về vắc xin và tiêm chủng (GAVI) tài trợ. Nhờ đó, đến nay, hầu hết các xã vùng sâu, vùng xa đều tổ chức được các điểm tiêm chủng ngoại trạm, giúp người dân tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ tiêm chủng mở rộng, góp phần bảo đảm tính công bằng xã hội trong chương trình tiêm chủng nói riêng cũng như thụ hưởng các dịch vụ y tế nói chung tại địa phương.

Chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế tuyến cơ sở đã được cải thiện đáng kể thông qua các chế độ quy định tại Nghị định số 64/2009/NÐ-CP về chính sách đối với cán bộ, viên chức y tế công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và Quyết định số 75/2009/QÐ-TTg về việc quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản của Thủ tướng Chính phủ. Đây là sự cụ thể hóa sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về phát triển y tế cơ sở. Tiếp đó, Nghị định số 117/2014/NĐ-CP quy định về y tế xã, phường, thị trấn được ban hành ngày 8-12-2014. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã chính thức chỉ đạo không tăng biên chế bộ máy nhà nước từ nay đến năm 2016, nhưng từ tháng 1-2015, gần 38.000 người làm việc tại trạm y tế cơ sở được “nâng cấp” chính thức là viên chức. Như vậy, từ nay hơn 68.000 cán bộ và nhân viên của 10.000 trạm y tế cơ sở trên cả nước đã chính thức hưởng quy chế về đào tạo, khen thưởng và thuyên chuyển chỗ làm theo Luật Viên chức, tạo động lực và điều kiện mới để họ cống hiến và phát huy hiệu quả hoạt động tuyến y tế cơ sở.

Cùng với tăng cường cán bộ, y, bác sĩ từ bệnh viện tuyến trên về cơ sở theo Đề án 1816 của Bộ Y tế, sự phát triển y tế cơ sở là điều kiện thiết yếu để bảo đảm chăm sóc ban đầu, tiến đến mục tiêu bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân, góp phần giải quyết triệt để và bền vững tình trạng quá tải bệnh viện và bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khỏe, tăng cường công tác truyền thông - giáo dục sức khỏe, nâng cao kiến thức của người dân, góp phần triển khai nhiều chương trình y tế quốc gia, như tiêm chủng mở rộng, phòng, chống suy dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, dân số - kế hoạch hóa gia đình, giám sát dịch bệnh, phòng, chống một số bệnh không lây nhiễm và giảm tình trạng quá tải trầm trọng ở các bệnh viện tuyến trên. Mạng lưới y tế cơ sở đã góp phần thanh toán bệnh bại liệt từ năm 2000, uốn ván sơ sinh từ năm 2005 và đưa Việt Nam trở thành một trong 8/74 quốc gia đạt tiến độ thực hiện Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về giảm tử vong trẻ em; một trong 9/74 quốc gia đạt tiến độ thực hiện về mục tiêu giảm tử vong mẹ; một trong ba quốc gia đạt được mức độ giảm hơn 75% tỷ số tử vong mẹ trong giai đoạn từ 1990 đến 2010. Cuối năm 2014, theo Tổng cục Thống kê, tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi (số trẻ em dưới 1 tuổi tử vong/1000 trẻ sinh ra sống) là 14,9‰, trong đó khu vực thành thị là 8,7‰; khu vực nông thôn là 17,8‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi (số trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/1000 trẻ sinh ra sống) là 22,4‰, trong đó khu vực thành thị là 13,1‰; khu vực nông thôn là 26,9‰. Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi, tỷ lệ tử vong mẹ đều thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia có cùng điều kiện kinh tế. Việt Nam đã đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 có trên 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân 10%; trên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế (năm 2014, cả nước đã có 64,1 triệu người có thẻ bảo hiểm y tế, độ bao phủ toàn quốc đạt 71%).

Những nỗ lực, kết quả phát triển y tế cơ sở trên đây được thế giới ghi nhận và là bằng chứng xác thực bác bỏ sự vu khống, bịa đặt rằng ở Việt Nam còn có hiện tượng bỏ rơi người nghèo, sự bất bình đẳng trong chăm sóc y tế, nhất là nông thôn, miền núi…

Tuy nhiên, phát triển y tế cơ sở là nhiệm vụ nội dung rộng, đối tượng phức tạp và thời gian kéo dài. Bên cạnh những thành tựu to lớn, mạng lưới y tế cơ sở còn không ít hạn chế cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế. Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Một số biểu hiện tiêu cực trong hoạt động y tế chậm được khắc phục, trong khi ngành y tế đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức mới gắn với mô hình bệnh tật thay đổi, dịch bệnh diễn biến ngày càng phức tạp, dân số tăng và có xu hướng già hóa nhanh, nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng tăng cao và đa dạng.

Bởi vậy, phát triển y tế cơ sở cả về lượng và chất phải từ trong nhận thức và trở thành trách nhiệm thường xuyên hơn nữa của các cấp ủy đảng và chính quyền; được lồng ghép và bố trí đủ nguồn lực thực hiện, có sự phân công trách nhiệm cụ thể, và cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội các cấp; đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ y tế là người địa phương, người dân tộc thiểu số; đội ngũ hộ sinh và điều dưỡng, nhân viên y tế thôn, bản, cô đỡ thôn, bản; bác sĩ gia đình và tăng cường chính sách đãi ngộ trong thu hút, tuyển dụng, khuyến khích cán bộ y tế làm việc lâu dài ở y tế cơ sở. Việc đầu tư cơ sở vật chất cho y tế cơ sở cần gắn với kế hoạch xây dựng nông thôn mới và với mô hình y tế dân - quân y kết hợp, được xem xét, lựa chọn kỹ, phù hợp với thực tế nhu cầu và năng lực sử dụng cụ thể của từng địa phương, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí; ưu tiên các xã vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn ở xa các bệnh viện.... Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa, tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho y tế cơ sở; tăng cường truyền thông về xây dựng nếp sống vệ sinh, rèn luyện thân thể, phòng bệnh, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của mỗi người, mỗi gia đình, hướng đến mục tiêu “sức khỏe cho mọi người” và “mọi người vì sức khỏe”.

Sự cải thiện y tế cơ sở về lượng và chất là thiết thực, đáp ứng nhu cầu xã hội và quyền lợi chính đáng của người lao động, dịch vụ xã hội cơ bản mọi người dân đều có quyền được hưởng, cũng như góp phần phát triển bền vững đất nước, bảo đảm sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện nhân quyền nói chung, các quyền xã hội nói riêng của người dân./.