Phú Thọ tập trung thực hiện hiệu quả ba khâu đột phá
TCCS - Phát huy những thành tựu và kinh nghiệm đạt được, trong giai đoạn 2011 - 2015, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ đề ra nhiều giải pháp và quyết tâm chỉ đạo, thực hiện hiệu quả công tác đầu tư kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển du lịch. Đây được xác định là ba khâu đột phá nhằm tạo đà cho kinh tế - xã hội phát triển nhanh, toàn diện, bền vững, làm nền tảng, bảo đảm đến năm 2020 Phú Thọ cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp.
Ổn định và phát triển - nền móng quan trọng cho các giai đoạn tiếp theo
Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhất là sau hơn 13 năm kể từ khi tỉnh Phú Thọ được tái lập, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ vừa qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, song, kinh tế của tỉnh tiếp tục phát triển ổn định, các ngành đều có mức tăng trưởng khá, quy mô nền kinh tế không ngừng được nâng lên. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2006 - 2010 đạt 10,6%, cao hơn mức bình quân của nhiệm kỳ trước (9,79%) và bình quân chung cả nước.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2006 - 2010 của Phú Thọ đạt 10,6%, giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp tăng 4,5%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12,5%/năm, dịch vụ tăng 15,4%.
Trong sản xuất nông nghiệp, tỉnh chú trọng xây dựng và triển khai các chương trình trọng điểm; phát triển các loại hình kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác xã; sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, dồn điền đổi thửa;... Vì vậy, nông nghiệp trong tỉnh luôn phát triển với tốc độ khá cao và ổn định, theo hướng sản xuất hàng hóa. Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp bình quân 5 năm tăng 4,5%; sản lượng lương thực hạt tăng 3,7%; giá trị sản phẩm bình quân trên 1 ha đất canh tác đạt 50,2 triệu đồng, tăng 2 lần so năm 2005; năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật nuôi được cải thiện. Ngoài ra, tỉnh xây dựng nhiều mô hình chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến như chè, giấy, sản phẩm gỗ, chăn nuôi, hàng nông sản... Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn từng bước được tăng cường, nhất là giao thông, thủy lợi; diện tích đất nông nghiệp được tưới tiêu chủ động đạt 83,1%, tăng 1,47 lần so năm 2005; toàn tỉnh có 95% số hộ dân được dùng điện lưới quốc gia, 85% số hộ dân được dùng nước hợp vệ sinh, 100% số trạm y tế được kiên cố hóa và có bác sĩ phục vụ, 30% đường giao thông nông thôn được kiên cố hóa... Các ngành nghề, làng nghề truyền thống được chú trọng phát triển, số làng nghề và làng có nghề tăng nhanh. Xây dựng nông thôn mới được quan tâm, diện mạo nông thôn thay đổi tích cực.
Trong lĩnh vực công nghiệp, tỉnh tập trung quy hoạch, và đẩy nhanh tốc độ triển khai xây dựng các khu, cụm công nghiệp; đồng thời, chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tiến độ đầu tư các dự án trọng điểm. Bằng các biện pháp như cải cách thủ tục hành chính, ban hành cơ chế đặc thù về một số lĩnh vực, lựa chọn những lĩnh vực quan trọng, then chốt để ưu tiên, Phú Thọ đã và đang tạo môi trường thuận lợi, thu hút các dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh. Vì vậy, những năm qua, sản xuất công nghiệp được duy trì mức tăng trưởng khá; giá trị sản xuất tăng bình quân 12,5%/năm. Năng lực sản xuất các ngành có lợi thế tăng nhanh, như công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, hóa chất, phân bón, dệt may. Một số sản phẩm mới, công nghệ cao đang hình thành, đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng được nâng lên, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Cơ cấu theo ngành và theo thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp chế biến, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh.
Các ngành dịch vụ phát triển khá toàn diện, khai thác được lợi thế, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân, tốc độ tăng bình quân đạt 15,4%/năm và tăng 2,04 lần so năm 2005. Trình độ công nghệ và chất lượng dịch vụ được chú trọng. Dịch vụ thương mại, vận tải, kho bãi, tín dụng - ngân hàng, bưu chính viễn thông phát triển nhanh, đồng bộ và từng bước hiện đại. Về cơ bản, tỉnh hoàn thành chương trình đầu tư kết cấu hạ tầng trọng điểm đến năm 2010. Nhiều công trình được đưa vào khai thác, sử dụng có hiệu quả như: Gia cố nâng cấp 560 km đê kết hợp giao thông, nhựa hóa 90% tỉnh lộ, cứng hóa 70% huyện lộ; đầu tư hạ tầng Khu công nghiệp Thụy Vân giai đoạn II; đưa vào sử dụng Khu Liên hợp thể thao tỉnh, Bảo tàng Hùng Vương; một số hạng mục chính của Đại học Hùng Vương, Khu di tích lịch sử Đền Hùng...
Một số kết quả trên lĩnh vực thương mại, dịch vụ đạt được trong năm 2010: - Doanh thu dịch vụ du lịch tăng 13,6%/năm; - Kim ngạch xuất khẩu đạt 295 triệu USD, tăng 2,34 lần so với năm 2005; bình quân xuất khẩu đạt 223,2 USD/người, tăng 2,3 lần so với năm 2005; - Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 2.000 tỉ đồng, tăng 2,6 lần so với năm 2005, bình quân tăng 21,4%/năm; - Tổng vốn huy động 5 năm đạt 29,9 nghìn tỉ đồng, tăng 21,4%/năm và tăng 2,6 lần so với giai đoạn 2001 - 2005.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội được coi trọng. Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng cao, đáp ứng bước đầu yêu cầu xây dựng xã hội học tập. Hệ thống mạng lưới, các loại hình trường, lớp được phát triển và mở rộng. Công tác quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo có chuyển biến tích cực. Trình độ đội ngũ giáo viên được quan tâm, tỷ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn tăng; chất lượng giáo dục miền núi có tiến bộ; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở được duy trì vững chắc. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng; mạng lưới y tế các tuyến được củng cố. Hết năm 2010, 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được tăng cường, dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình được mở rộng ở tất cả các tuyến. Tỉnh chú trọng xây dựng quy hoạch, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa, phục dựng lễ hội truyền thống. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội được coi trọng. Các thiết chế văn hóa, thể thao cấp tỉnh được xây dựng đồng bộ và hiện đại, cấp huyện và cơ sở được đầu tư theo hướng xã hội hóa. Hoạt động báo chí, xuất bản, văn học nghệ thuật có tiến bộ, chất lượng được nâng lên, tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 97% địa bàn dân cư. Phong trào thể dục thể thao được đẩy mạnh, thể thao thành tích cao được quan tâm và có bước phát triển. Chương trình giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được triển khai tích cực. Trong 5 năm, toàn tỉnh có 90,7 nghìn lao động được giải quyết việc làm, bình quân tăng 9,5%/năm; 14,63 nghìn người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài. Các cơ sở đào tạo nghề được mở rộng, đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động. Năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%, trong đó qua đào tạo nghề đạt 26%. Công tác xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh, cơ bản xóa xong nhà tạm cho hộ nghèo. Các chính sách xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời, thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ đã đạt được trong những năm đổi mới, đặc biệt là trong nhiệm kỳ vừa qua sẽ là bước tạo đà vững chắc để tỉnh tiếp tục khắc phục khó khăn, phát huy những lợi thế hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch trong những năm tiếp theo.
Một số kinh nghiệm - cơ sở để Đảng bộ, nhân dân Phú Thọ vững bước
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Phú Thọ vẫn là tỉnh nghèo, kinh tế của tỉnh phát triển chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu nội bộ ngành, cơ cấu lao động còn chậm, nguy cơ tụt hậu kinh tế còn cao. Chất lượng một số lĩnh vực xã hội còn yếu kém; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống, việc làm, thu nhập của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị còn nhiều hạn chế; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chưa thực sự phát huy tốt vai trò trong hệ thống chính trị.
Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị, Phú Thọ đã rút ra một số bài học kinh nghiệm là:
Thứ nhất, tập trung làm tốt công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là công tác cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ, năng lực thực tiễn và uy tín trong Đảng, trong xã hội; đề cao trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp.
Thứ hai, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phương pháp lãnh đạo theo hướng có trọng tâm, trọng điểm; nhạy bén, kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo, bám sát thực tiễn, tăng cường dự báo thông tin, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình; lựa chọn đúng các khâu đột phá, chủ động xây dựng chương trình, dự án để tập trung chỉ đạo.
Thứ ba, chủ động phát huy lợi thế vùng Đất Tổ, khơi dậy các tiềm năng, thế mạnh; huy động nội lực, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế; coi trọng chất lượng và hiệu quả tăng trưởng.
Thứ tư, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường; củng cố quốc phòng an ninh, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thứ năm, phát huy vai trò giám sát của hội đồng nhân dân các cấp; tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ công chức.
Lựa chọn những nhiệm vụ giải pháp phù hợp, quyết tâm thực hiện thành công ba khâu đột phá
Để thực hiện hiệu quả ba khâu đột phá nêu trên và bảo đảm hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, trong nhiệm kỳ tiếp theo tỉnh Phú Thọ đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung chỉ đạo, thực hiện:
Một là, phát triển toàn diện nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; đẩy nhanh tiến trình xây dựng nông thôn mới; tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học, áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất. Hình thành các vùng nguyên liệu quy mô lớn: chè, cao su, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc...; xây dựng một số khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; phát triển lâm nghiệp, thủy sản theo hướng thâm canh. Phấn đấu đến năm 2015, giá trị sản phẩm bình quân trên 1 ha đất canh tác đạt trên 65 triệu đồng, sản lượng lương thực đạt 46 - 47 vạn tấn, trồng từ 3 - 3,5 nghìn héc-ta cây cao su; có 72 làng nghề và trên 1.500 làng có nghề; hoàn thành cơ bản kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
Toàn tỉnh Phú Thọ có 95% số hộ dân được dùng điện lưới quốc gia, 85% số hộ dân được dùng nước hợp vệ sinh, 100% số trạm y tế được kiên cố hóa và có bác sĩ phục vụ, 30% đường giao thông nông thôn được kiên cố hóa, tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 97% địa bàn dân cư. Trong 5 năm, toàn tỉnh có 90,7 nghìn lao động được giải quyết việc làm. Năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%, trong đó qua đào tạo nghề đạt 26%.
Hai là, tập trung phát triển công nghiệp - xây dựng theo hướng tăng nhanh quy mô sản xuất và nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh; tổ chức lại không gian hợp lý để phát huy lợi thế các vùng trong tỉnh. Ưu tiên các sản phẩm mới, sản phẩm có ý nghĩa chiến lược tạo sự phát triển đột phá trong công nghiệp như cơ khí, vật liệu xây dựng chất lượng cao, điện tử, công nghiệp phụ trợ, công nghệ thông tin, công nghiệp dược, gỗ gia dụng...; xúc tiến triển khai các dự án đầu tư trọng điểm quy mô lớn như nhiệt điện, luyện thép...; chú trọng công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Tập trung đầu tư đồng bộ hạ tầng các khu công nghiệp trọng điểm...
Ba là, phát huy lợi thế trung tâm vùng, lợi thế vùng Đất Tổ, tạo bước phát triển vượt bậc về du lịch, dịch vụ; phấn đấu xây dựng Phú Thọ thành trung tâm du lịch về cội nguồn, du lịch sinh thái, với hạt nhân là Đền Hùng, thành phố lễ hội Việt Trì, hệ thống các di tích gắn với giá trị văn hóa thời kỳ Hùng Vương. Mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, có lợi thế, đi đôi với ưu tiên các dịch vụ của trung tâm vùng. Phấn đấu hằng năm, thu hút từ 5 - 6 triệu lượt khách đến tham quan du lịch; khách lưu trú tăng bình quân 13%/năm; kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 13%/năm.
Bốn là, đầu tư đồng bộ hệ thống giao thông kết nối các trung tâm kinh tế của tỉnh với mạng lưới giao thông quốc gia như: Quốc lộ 32A, 32C, đường Âu Cơ, đường Đền Hùng - Xuân Sơn; phấn đấu đến năm 2015, có 100% tỉnh lộ, huyện lộ được nhựa hóa; phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án: Đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, đường Hồ Chí Minh, nâng cấp quốc lộ 2 (đoạn Vĩnh Yên - Việt Trì), các cầu qua sông Hồng, sông Lô, sông Đà; đường sắt Hà Nội - Lào Cai, đường sông Việt Trì - Tuyên Quang. Đầu tư kết cấu hạ tầng thành phố Việt Trì, phấn đấu đạt tiêu chí đô thị loại I - thành phố Lễ hội - trung tâm dịch vụ của vùng; nâng cấp thị xã Phú Thọ lên đô thị loại II, một số thị trấn, thị tứ vào cấp đô thị. Tiếp tục đầu tư hoàn thiện hạ tầng các khu, cụm công nghiệp trọng điểm; từng bước hiện đại hóa hệ thống thủy lợi theo quy hoạch. Xây dựng hệ thống khách sạn chất lượng cao, hạ tầng kỹ thuật các dự án du lịch.
Năm là, chú trọng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các hoạt động sự nghiệp công. Phát triển khoa học - công nghệ và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao giữa các cơ sở nghiên cứu với doanh nghiệp; đăng ký, xây dựng thương hiệu sản phẩm. Quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ và cải thiện môi trường.
Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, Phú Thọ tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản, như phát triển toàn diện nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; tập trung phát triển công nghiệp - xây dựng theo hướng tăng nhanh quy mô sản xuất và nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh; phát huy lợi thế trung tâm vùng, lợi thế vùng Đất Tổ, tạo bước phát triển vượt bậc về du lịch, dịch vụ; đầu tư đồng bộ hệ thống giao thông kết nối các trung tâm kinh tế của tỉnh với mạng lưới giao thông quốc gia; chú trọng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các hoạt động sự nghiệp công; tập trung phát triển toàn diện các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - xã hội...
Sáu là, tập trung phát triển toàn diện các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - xã hội. Trong giáo dục - đào tạo, tiếp tục củng cố, phát triển toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa; hoàn thành mục tiêu phổ cập bậc trung học; quan tâm phát triển giáo dục mầm non, giáo dục cộng đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trường ngoài công lập hoạt động. Củng cố, phát triển mạng lưới y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt công tác dân số, gia đình và chăm sóc trẻ em; hoàn thành đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế theo phân hạng và phân tuyến kỹ thuật; tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành y tế. Chú trọng công tác y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe nhân dân; phấn đấu đạt tỷ lệ 9 bác sĩ và 39,5 giường bệnh/vạn dân. Xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở; bảo tồn, tôn tạo di tích quốc gia đặc biệt, các di chỉ khảo cổ học; hoàn thiện hồ sơ hát Xoan và hồ sơ tín ngưỡng thờ Vua Hùng trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể; khai thác, sử dụng có hiệu quả các thiết chế thể thao từ tỉnh đến cơ sở. Tiếp tục triển khai sâu rộng phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", thực hiện nếp sống văn hóa trong gia đình, khu dân cư; nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; thực hiện cải cách thủ tục hành chính gắn với văn minh đô thị và điểm du lịch, văn minh công sở. Tạo bước phát triển đột phá về đào tạo nguồn nhân lực; giải quyết tốt các vấn đề về lao động, việc làm, giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội; phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề theo nhu cầu thị trường lao động; chuẩn hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý; xây dựng các trường cao đẳng, trung cấp nghề trên địa bàn đạt chuẩn, một số trường tương đương với trình độ tiên tiến các nước trong khu vực. Chú trọng đào tạo nghề cho lao động ở khu vực nông thôn, miền núi; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm đối tượng khó khăn, yếu thế được tham gia học nghề, tăng cơ hội việc làm, phấn đấu dạy nghề 30 - 32 nghìn lao động nông thôn/năm; tạo việc làm cho 22 - 23 nghìn lao động/năm. Thực hiện tốt chính sách xã hội, đẩy mạnh hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc người có công; tạo cơ hội cho hộ nghèo tiếp cận các chính sách trợ giúp về pháp lý, đất đai, tín dụng, dạy nghề, khuyến công, khuyến nông lâm ngư, tiêu thụ sản phẩm.../.
Thông báo Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X)  (14/10/2010)
Bế mạc Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X): Bước tiếp tục chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng  (14/10/2010)
Phát biểu của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh bế mạc Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)  (14/10/2010)
Sàn an sinh xã hội - một sáng kiến mang tính nhân văn  (14/10/2010)
Việt Nam - ASEAN: Hội nhập và Phát triển: Sẽ có 12 Hội nghị cấp cao được tổ chức trong dịp Hội nghị cấp cao ASEAN 17  (14/10/2010)
Thăng Long - Hà Nội: những ấn tượng sâu đậm  (14/10/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm