Một số ý kiến về chế định quyền làm việc trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
18:59, ngày 31-05-2013
TCCSĐT - Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền làm việc được chế định chủ yếu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR, năm 1966) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, năm 1966). Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về cơ bản đã chế định khá toàn diện quyền làm việc, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, còn một số nội dung cần điều chỉnh cho chính xác hơn.

Các điều ước quốc tế, nhìn chung, xác định nội dung quyền làm việc của tất cả mọi người, gồm:

- “…có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp”;

- “…có quyền được trả công ngang nhau”;

- “… có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng và hợp lý”;

- “… có quyền thành lập hoặc gia nhập công đoàn”;

- “… có quyền nghỉ ngơi và thư giãn, kể cả quyền được giới hạn hợp lý số giờ làm việc và được hưởng những ngày nghỉ định kỳ có hưởng lương”(1).

Và yêu cầu các quốc gia thi hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm các quyền này”(2). Quyền làm việc được chế định dưới 3 dạng, trong đó 2 dạng đầu là quyền trực tiếp; dạng sau, là quyền gián tiếp hay quyền thụ động:

- Quyền: được làm việc và được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi.

- Tự do (hay quyền cơ bản): tự do lựa chọn nghề nghiệp,...

- Trách nhiệm của xã hội: bảo vệ và thực hiện các quyền làm việc, có quyền và nghĩa vụ định hướng và đưa ra những chỉ dẫn phù hợp,...

Nội dung quyền làm việc được phân thành: a/ Nhóm quyền được được tự do lựa chọn nghề nghiệp và được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi; b/ Nhóm quyền được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp và những điều kiện làm việc không công bằng; c/ Nhóm quyền được trả công và thù lao công bằng, hợp lý; d/ Nhóm quyền được tham gia và được phát triển.

Việt Nam tham gia ký Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ngày 24-9-1982) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ngày 24-9-1982). Quyền làm việc được chế định trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, gồm cả lần sửa đổi vào năm 2001. Quyền làm việc được thể chế hóa trong nhiều bộ luật và luật, mà tập trung là Bộ luật Lao động (năm 1994, được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2012).

Chế định quyền làm việc trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Thứ nhất, các quyền trực tiếp

Điều 34 (sửa đổi, bổ sung Điều 57):

1. Mọi người có quyền tự do kinh doanh.

2. Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh.

Điều 38 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56):

1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn việc làm, nghề nghiệp và nơi làm việc.

2. Nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng người lao động chưa thành niên trái pháp luật.

Điều 43 (sửa đổi, bổ sung Điều 60):

1. Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật.

2. Quyền sở hữu trí tuệ được Nhà nước bảo hộ.

Điều 56 (sửa đổi, bổ sung các điều 22, 23 và 25):

1. Tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật.

2. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh.

3. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.
Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định.

Điều 61 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56):

1. Tổ chức, cá nhân được khuyến khích, tạo điều kiện để tạo việc làm, có thu nhập thỏa đáng cho người lao động.

2. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.

Thứ hai, quyền làm việc được hàm chứa trong việc chế định các quyền khác như Điều 17 (sửa đổi, bổ sung Điều 52); Điều 33 (sửa đổi, bổ sung Điều 58); Điều 44 (mới); Điều 46 (mới); Điều 53 (sửa đổi, bổ sung Điều 15, Điều 43); Điều 54 (sửa đổi, bổ sung các điều 15, 16, 19, 20, 21 và 25); Điều 55 (sửa đổi, bổ sung Điều 24, Điều 26); Điều 57 (sửa đổi, bổ sung Điều 17, Điều 18); Điều 58 (sửa đổi, bổ sung Điều 18); Điều 59 (mới); Điều 60 (sửa đổi, bổ sung Điều 27); Điều 63 (sửa đổi, bổ sung Điều 67); Điều 67 (sửa đổi, bổ sung Điều 37, Điều 38); Điều 68 (mới).

Nhận xét về việc chế định quyền làm việc trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, về cơ bản đã chuyển được cách thức thức thiết lập quyền làm việc từ chỗ quy định dưới dạng Nhà nước “quyết định” quyền cho công dân và mọi người sang việc công dân và mọi người được hưởng các quyền đó một cách mặc nhiên và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền làm việc.

Dự thảo dành cho quyền làm việc một khuôn khổ khá rộng lớn gồm cả quyền trực tiếp và quyền hàm chứa, với nhiều quyền cơ bản mà luật nhân quyền quốc tế và nhiều hiến pháp của các nước trên thế giới đã ghi nhận; trong đó có một số quyền mới (quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật; ...).

Tuy nhiên, hình thức chế định quyền làm việc còn thiếu chế định quyền dưới dạng “trách nhiệm” của xã hội và quyền được bảo vệ, nhất là đối với các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương (trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật, người cao tuổi).

Trong Dự thảo còn thiếu việc chế định (hoặc chế định chưa đủ rõ) “quyền thành lập hoặc gia nhập công đoàn”; “quyền nghỉ ngơi và thư giãn, kể cả quyền được giới hạn hợp lý số giờ làm việc và được hưởng những ngày nghỉ định kỳ có hưởng lương” của người lao động, theo điều ước quốc tế mà Việt Nam đã thừa nhận và tham gia ký kết.

Hơn nữa, cách diễn đạt ở một số điều có thể gây thắc mắc. Ví dụ, Khoản 1 Điều 61 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56) dùng những từ “tạo việc làm” trong cụm từ “tạo điều kiện để tạo việc làm” có thể làm nảy sinh câu hỏi: Vậy những người không có khả năng “tạo việc làm” cho bản thân và cho cộng đồng hay xã hội có được Hiến pháp “tạo điều kiện” không? (Dự thảo là: 1. Tổ chức, cá nhân được khuyến khích, tạo điều kiện để tạo việc làm, có thu nhập thỏa đáng cho người lao động).

Một số kiến nghị

Để hoàn thiện Dự thảo theo hướng tăng cường bảo đảm quyền làm việc và phù hợp với thông lệ và các điều khoản quốc tế mà nước ta đã tham gia, theo chúng tôi cần:

- Khoản 2 Điều 38 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56) đã quy định “Nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng người lao động chưa thành niên trái pháp luật”. Nhưng như thế vẫn chưa đủ về đối tượng. Nên bổ sung cả nhóm phụ nữ và những người dễ bị tổn thương nói chung vào nhóm các đối tượng cần được tăng cường bảo vệ.

- Bổ sung một khoản trong Điều 10 (sửa đổi, bổ sung Điều 10) về quyền gia nhập công đoàn của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế.

- Bổ sung một khoản - có thể ở Điều 35 (sửa đổi, bổ sung Điều 67) hoặc Điều 38 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56) về “quyền nghỉ ngơi và thư giãn, kể cả quyền được giới hạn hợp lý số giờ làm việc và được hưởng những ngày nghỉ định kỳ có hưởng lương” của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế.

- Để bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền hiến định và luật định, nên có một khoản, tốt nhất là một điều ở Chương 2, quy định về sự bình đẳng giữa các quyền hiến định và luật định, trong đó có quyền làm việc.

- Về kỹ thuật lập hiến, nhiều điều trong Dự thảo ràng buộc các quyền hiến định “theo” và do đó, thấp hơn “quy định của pháp luật”. Vì thế nên thay chữ “theo” bằng chữ “do” hay chữ “bằng”. Thay chữ “tạo” bằng chữ “có” trong cụm từ “tạo việc làm ...” ở Khoản 1 Điều 61 (sửa đổi, bổ sung Điều 55, Điều 56); và chỉnh sửa cách thể hiện một số điều khác phù hợp với vị trí và tính chất của Hiến pháp./.

-------------------------------------------------------

(1) Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Hỏi đáp về quyền con người, Nxb. Công an nhân dân, H. 2010, tr.242-243.

(2) Đại học quốc gia Hà Nội, Quyền con người - Tập tài liệu chuyên đề của Liên hợp quốc, Nxb. Công an nhân dân, H. 2010, tr.289.