Hội thảo khoa học "Mặt trận hướng Đông - từ Chiến dịch Xuân Lộc đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử"
20:54, ngày 24-04-2012
TCCSĐT - Sáng 24-4, tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Bộ Quốc phòng phối hợp với Tỉnh ủy Đồng Nai tổ chức Hội thảo khoa học "Mặt trận hướng Đông - từ Chiến dịch Xuân Lộc dến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử”.
Về dự Hội thảo có các đồng chí: Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Thượng tướng Nguyễn Thành Cung - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Lê Hoàng Quân - Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Đình Thành - Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai; Thượng tướng, tiến sĩ Nguyễn Thới Bưng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Cùng dự Hội thảo có gần 300 đại biểu đại diện Bộ Quốc phòng, các binh chủng, các quân khu, quân đoàn, đại diện các bộ tư lệnh từng tham gia Chiến dịch, đại diện các tỉnh, thành vùng Đông Nam bộ, các nhân chứng lịch sử, các nhà khoa học, các tướng lĩnh...
Sau lời khai mạc Hội thảo của Thượng tướng Nguyễn Thành Cung, Trung tướng PGS,TS Nguyễn Tuấn Dũng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐNDVN đọc báo cáo đề dẫn Hội thảo, nêu rõ:
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Xuân Lộc có vị trí quan trọng chiến lược, là địa bàn nối liền chiến trường rừng núi Tây Nguyên, Nam Trung bộ với các căn cứ kháng chiến của miền Đông Nam bộ, là nơi có phong trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ. Do vậy, trong quá trình tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tổ chức, xây dựng Xuân Lộc thành cứ điểm quân sự mạnh, nhằm bảo vệ cửa ngõ phía Đông trên con đường tiến vào “thủ đô” Sài Gòn; đồng thời, nơi đây cũng chính là bàn đạp để Mỹ và quân đội Sài Gòn tiến hành đánh phá phong trào cách mạng.
Trong những ngày sôi động của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Xuân Lộc trở thành quyết chiến điểm trước cửa ngõ phía Đông Sài Gòn – Gia Định và là vị trí “tử thù” của quân đội và chính quyền Sài Gòn.
Để giữ Xuân Lộc và bảo vệ “thủ đô” Sài Gòn, quân đội Sài Gòn đã tăng cường và bố trí tại đây một lực lượng và phương tiện phòng ngự mạnh nhất của chúng. Đối phương sử dụng Sư đoàn 18, nhiều lữ đoàn và chiến đoàn thuộc lực lượng cơ động chiến lược, biệt động quân, địa phương quân cùng hàng trăm xe tăng - thiết giáp, pháo binh và máy bay các loại để bảo vệ Xuân Lộc.
Tại Xuân Lộc đã diễn ra trận kích chiến trong suốt 12 ngày đêm, từ ngày 9 đến ngày 21-2-1975. Quân đoàn 4 (gồm các Sư đoàn 6, 7, 341) cùng lực lượng thuộc cánh quân phía Đông, quân và dân địa phương thực hiện đòn tiến công Xuân Lộc.
Tuy nhiên, với lực lượng mạnh và trong cơn tuyệt vọng cuối cùng, quân đội Sài Gòn đã thể hiện một sự kháng cự điên cuồng và “tử thủ” quyết liệt, điều đó đã khiến cho cuộc tiến công của quân ta gặp nhiều khó khăn, tổn thất ngay trong những ngày đầu chiến dịch.
Trước yêu cầu và tình hình mới của cục diện chiến trường, chúng ta phải nhanh chóng tổ chức lại thế trận, phải thay đổi cách đánh, tiến hành chia cắt và cô lập lực lượng đối phương tại Xuân Lộc – đó là quyết định chính xác, kịp thời của Bộ Tư lệnh Miền và Bộ Chỉ huy Chiến dịch. Từ ngày 12-4, với cách đánh mới và có sự phối hợp của nhiều đơn vị, lực lượng chiến dịch đã được thực hành nhiều trận đánh vòng ngoài, chặn cắt các ngả đường tiếp tế, chia cắt Xuân Lộc với Biên Hòa, bẻ gãy toàn bộ các đợt phản kích của đối phương. Quân ta đã đánh thiệt hại nặng hầu hết các đơn vị của đối phương trên tuyến phòng thủ Xuân Lộc. Đứng trước nguy cơ bị bao vây, tiêu diệt hoàn toàn, đêm 20 rạng ngày 21-4, lực lượng còn lại của quân đội Sài Gòn tháo chạy khỏi Xuân Lộc. Phòng tuyến Xuân Lộc của quân đội Sài Gòn bị đập tan cũng là thời điểm đánh dấu tỉnh Long Khánh được giải phóng.
Chiến thắng Xuân Lộc làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự xung quanh Sài Gòn của đối phương; âm mưu co cụm chiến lược để duy trì trạng thái giằng co chờ mùa mưa tới hoặc chờ một giải pháp chính trị của Mỹ và chính quyền Sài Gòn tan thành “mây khói”.
Có thể nói, kết quả của cuộc chiến đấu quyết liệt của quân và dân ta trên Mặt trận hướng Đông, mà quyết chiến điểm là Chiến dịch Xuân Lộc đã tạo ra thời cơ lớn để đại quân ta mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chọc thẳng vào sào huyệt cuối cùng của chính quyền Sài Gòn, góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Đập tan tuyến phòng thủ Xuân Lộc, lực lượng vũ trang và nhân dân ta đã thể hiện ý chí quyết tâm cao độ, tất cả vì trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta đã anh dũng ngã xuống khi còn cách thắng lợi hoàn toàn đúng 10 ngày. Đó là sự hy sinh rất lớn mà mỗi chúng ta hôm nay và mai sau cần phải khắc ghi và đền đáp xứng đáng.
Nhấn mạnh tầm vóc và ý nghĩa quan trọng của Chiến dịch Xuân Lộc và Mặt trận hướng Đông trong đại thắng mùa Xuân 1975, Trung tướng PGS,TS Nguyễn Tuấn Dũng đề nghị Hội thảo tập trung làm rõ hơn, sâu sắc hơn những nội dung chủ yếu:
Một là, khẳng định và làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo trong chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương – nhân tố quyết định để dành thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói chung, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử nói riêng.
Hai là, trình bày bối cảnh lịch sử sau Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Trị Thiên - Huế, Chiến dịch Đà Nẵng, các đợt tiến công dọc duyên hải miền Trung, chuyển biến của cục diện chiến trường miền Nam trước, trong và sau khi ta mở Chiến dịch Xuân Lộc, đập tan “cánh cửa thép” phía Đông Sài Gòn của đối phương.
Ba là, nêu bật tinh thần tích cực, chủ động của Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền trong quá trình chuẩn bị và thực hành kế hoạch tác chiến của các lực lượng vũ trang Quân Giải phóng miền Nam trên hướng Đông từ Chiến dịch Xuân Lộc đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tái hiện diễn biến, tính chất, đặc điểm và nét đặc sắc của nghệ thuật chiến dịch thể hiện trong Chiến dịch Xuân Lộc; sự phối hợp chiến đấu của quân và dân, của lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động…
Bốn là, nhìn nhận, đánh giá vị trí, tầm vóc, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Chiến dịch Xuân Lộc và Mặt trận hướng Đông, góp phần tuyên truyền giáo dục truyền thống cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và nhân dân phát huy trong sự nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng khu vực phòng thủ trên địa bàn, tăng cường nền quốc phòng toàn dân, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong tổng số 76 bài tham luận của các tướng lĩnh, các nhà khoa học và cả những nhân chứng lịch sử gửi về Ban Tổ chức, 15 tham luận được trình bày tại Hội thảo đã bám sát chủ đề nêu trên, làm rõ các vấn đề về tinh thần tích cực, chủ động của Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền trong chỉ đạo chiến lược; tổ chức lực lượng, thực hành Chiến dịch Xuân Lộc; bước phát triển trong nghệ thuật chiến dịch, sự phối hợp tác chiến của các đơn vị, quân binh chủng, lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân miền Đông Nam bộ, trực tiếp là quân dân Xuân Lộc; vị trí của mặt trận hướng Đông và Chiến dịch Xuân Lộc trong toàn bộ cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975; đánh giá tầm vóc, ý nghĩa, nhân tố thắng lợi, đúc rút những bài học kinh nghiệm có giá trị vận dụng và phát huy trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khu vực phòng thủ, tăng cường quốc phòng an ninh, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mỗi tham luận đều đã góp phần làm rõ sự chỉ đạo sáng suốt, nhận định đúng thời cơ chiến lược của Bộ Chính trị, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền là thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong tháng tư; khẳng định chiến thắng Xuân Lộc đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho quân và dân trên mặt trận hướng Đông tiến vào giải phóng Sài Gòn - Gia Định trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đồng thời cũng mở ra cách nhìn mới trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến thắng Xuân Lộc. Ví dụ như, xây dựng thế trận phòng thủ trong điều kiện đất nước đang ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế vẫn rất cần dựa vào "thế trận lòng dân", trong đó tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc theo hướng khép kín địa bàn, có chiều sâu, trọng tâm, trọng điểm, thực hiện tốt vị trí cửa ngõ phía Đông Thành phố Hồ Chí Minh...
Trước đó, đoàn đại biểu dự Hội thảo khoa học “Mặt trận hướng Đông - từ Chiến dịch Xuân Lộc đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử" đã đến viếng Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Đồng Nai, tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Sau khi đặt vòng hoa, các đại biểu đã dành một phút mặc niệm tưởng nhớ các liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc và dâng hương lên bàn thờ Tổ quốc ghi công.
Trong khuôn khổ Hội thảo, ngày 25-4, các đại biểu đi thực tế thăm quan Di tích lịch sử Chiến khu Đ thuộc địa phận Lâm trường Hiếu Liêm, xã Trị An, huyện Vĩnh Cửu. Chiến khu Đ là căn cứ kháng chiến nổi tiếng ở miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc Việt Nam. Đây là nơi ra đời kỹ thuật đặc công và lực lượng đặc công đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày nay, trong phạm vi chiến khu Đ có 3 di tích lịch sử: Địa đạo Suối Linh, Căn cứ Khu ủy Miền Đông và là nơi thành lập đầu tiên Trung ương cục Miền Nam (1961)./.
Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng trong các loại hình doanh nghiệp  (24/04/2012)
Vài nét về chính sách an sinh xã hội ở Phần Lan  (24/04/2012)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Cuba  (23/04/2012)
Hội nghị Quốc hội Việt Nam - Lào ra Thông cáo chung  (23/04/2012)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm