Tài chính cho giáo dục đại học ở một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Vũ Trường Giang Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị Đại học Quốc gia Hà Nội
14:25, ngày 01-09-2011
TCCSĐT - Trước thực tế thiếu hụt các nguồn lực để phát triển giáo dục đại học, đặc biệt là nguồn lực tài chính, giáo dục đại học Việt Nam hiện nay vẫn phải bảo đảm yêu cầu mở rộng hợp lý quy mô, cơ cấu đào tạo, đồng thời, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trong việc huy động nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học để vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam là rất cần thiết.

Sự đầu tư của nhà nước luôn ở mức cao

Nhận thức rõ vai trò của giáo dục, chính phủ các nước luôn quan tâm và tăng cường đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo, trong đó, có giáo dục đại học.

Từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước trở lại đây, Mỹ rất chú trọng đầu tư cho giáo dục, nhất là giáo dục đại học. Theo đó, ngân sách đầu tư cho giáo dục của Mỹ rất cao: năm 1985 khoảng 300 tỉ USD, năm 1989 là 353 tỉ USD, đến năm 1999 đạt 653 tỉ USD, kéo theo đó là sự gia tăng về số lượng tuyệt đối chi ngân sách cho giáo dục đại học. Hiện nay, tỷ lệ đầu tư cho giáo dục của Mỹ chiếm khoảng 7% GDP, toàn bộ chi tiêu cho giáo dục đào tạo hằng năm xấp xỉ 1.000 tỉ USD, trong đó giáo dục đại học chiếm khoảng hơn 700 tỉ USD.

Ngân sách nhà nước là thành phần chính trong các nguồn vốn cho giáo dục đại học ở Trung Quốc, điều đó được ghi rõ trong Điều 60, Luật Giáo dục đại học của nước này. Từ năm 1994, thực hiện yêu cầu “3 tăng trưởng”, có nghĩa là “mức tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục phải cao hơn mức tăng thu nhập ngân sách thường xuyên để từng bước tăng chi phí giáo dục tính bình quân theo đầu học sinh, bảo đảm tăng lương giáo viên và tăng chi phí dùng chung tính theo đầu học sinh”, từ đó đến nay, ngân sách đầu tư cho giáo dục của Trung Quốc không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, sức ép về nhu cầu mở rộng quy mô nâng cao chất lượng giáo dục đại học cộng với nhu cầu đầu tư cho các lĩnh vực khác đã buộc Chính phủ Trung Quốc phải giảm tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học và chỉ tăng lượng đầu tư tuyệt đối. Hiện nay, mức chi cho giáo dục của Trung Quốc chiếm khoảng 3,28% GDP.

Huy động nguồn tài chính từ cá nhân, các tổ chức và doanh nghiệp

Huy động các nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước để đầu tư cho giáo dục đại học là biện pháp phổ biến ở các nước trên thế giới, từ nước phát triển cho đến những nước chậm phát triển nhằm góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và giải quyết bài toán về nhu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay. Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ là những nước có tỷ lệ đóng góp của tư nhân cao hơn so với đóng góp của ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học. Những khoản đóng góp tư nhân được thể hiện dưới các hình thức sau:

Một là, đóng góp học phí của các bậc cha, mẹ sinh viên. Đây là một hình thức chuyển gánh nặng chi phí trong giáo dục đại học từ những người đóng thuế hoặc từ công dân nói chung sang người học, cha, mẹ người học.

Ở nước Mỹ, thu học phí của sinh viên được xem là một giải pháp chủ yếu nhằm chia sẻ chi phí giáo dục đại học. Học phí đại học được tính toán sao cho có thể bù đắp đáng kể các chi phí hoạt động của nhà trường và các chi phí do lạm phát gây ra. Vì vậy, mức học phí ở các trường đại học luôn thay đổi theo xu hướng tăng lên.

Ở Trung Quốc, trước năm 1989, Nhà nước bao cấp hoàn toàn kinh phí cho giáo dục đại học. Từ năm 1989 trở lại đây, Chính phủ nước này đã thực hiện chế độ thu học phí đối với giáo dục đại học trong các trường công lập, ngay cả sinh viên được học bổng theo kế hoạch tuyển sinh của Nhà nước cũng phải đóng học phí từ 100 đến 300 nhân dân tệ một năm học. Năm 1995, Trung Quốc chính thức quy định mức thu học phí cao nhất của các trường đại học là 1.200 nhân dân tệ (trường hợp cụ thể có thể tăng thêm 20%).

Ở Hàn Quốc, trong điều kiện thuận lợi, các bậc cha mẹ sẵn sàng chi trả cao để cho con em họ có học vấn càng cao càng tốt. Thực tế, chi phí tư nhân trong lĩnh vực giáo dục đại học của Hàn Quốc chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Chính điều đó đã giúp Hàn Quốc huy động được nguồn lực tài chính rất lớn từ khoản đóng góp của các bậc cha, mẹ sinh viên. Chỉ trong vòng bốn thập niên, Hàn Quốc đã giải quyết thành công bài toán đuổi kịp về giáo dục cùng lúc với bài toán đuổi kịp về kinh tế so với các nước phát triển.

Hai là, phát triển khu vực giáo dục đại học tư nhân. Đây là chính sách của nhiều quốc gia nhằm góp phần chia sẻ gánh nặng chi phí và mở rộng cơ hội học tập cho nhiều người dân, đồng thời huy động được nguồn lực xã hội tham gia phát triển giáo dục. Hệ thống các trường đại học tư thường được phân thành hai loại: phi lợi nhuận và vì lợi nhuận. Ở một số nước như Hàn Quốc, Mỹ, nhiều trường thuộc nhóm vì lợi nhuận được đánh giá cao về chất lượng, và do vậy, đã thu hút được ngày càng nhiều sinh viên theo học, mặc dù chi phí theo học tại các trường tư thục ở những nước này rất cao.

Ở Hàn Quốc, giáo dục đại học tư thục phát triển rất mạnh mẽ. Từ những năm 1960, các trường đại học tư này đã thu hút được rất nhiều nguồn tài chính. Vì vậy, giáo dục được coi như một ngành kinh tế lớn thứ hai sau nông nghiệp. Ngay từ năm 1962, quy mô sinh viên theo học tại các trường cao đẳng và đại học tư thục đã chiếm 3/4 tổng số sinh viên của Hàn Quốc. Thông qua nhà trường tư thục và khát vọng học tập của người dân, giáo dục Hàn Quốc đã có sự phát triển theo kiểu đón đầu, kịp thời bổ sung nguồn nhân lực trình độ đại học cho yêu cầu phát triển kinh tế tri thức từ những năm 1990.

Ở Mỹ hiện có khoảng 3.900 trường đại học, trong đó, có khoảng trên 1.800 trường tư do những người không có chuyên môn về học thuật điều hành và trên 1.800 trường công lập. Hệ thống các trường tư thục có tiêu chuẩn cao chủ yếu tuyển chọn sinh viên thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội, đồng thời, cũng có loại trường dành cho sinh viên nghèo. Có một số trường đại học tư thục nổi tiếng đã đào tạo ra nhiều nhân tài kiệt xuất cho nước Mỹ và thế giới như Harvard, Yale, Columbia, Stanford. Tuy nhiên, ở các trường này, sinh viên phải đóng kinh phí mỗi năm cũng rất cao (khoảng 20.000USD/năm trở lên).

Ba là, các trường đại học tự tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động dịch vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Xu hướng hiện nay trên thế giới là các trường đại học tận dụng lợi thế sẵn có của mình để thực hiện các hoạt động dịch vụ, liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học để tăng nguồn thu cho hoạt động của trường.

Ở Mỹ, việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao được các công ty Mỹ rất chú trọng. Mỗi năm, các công ty ở Mỹ đóng góp khoảng trên 150 tỉ USD cho giáo dục đại học. Các trường đại học Mỹ chịu tác động sâu sắc của thị trường và có mối quan hệ đa dạng với thị trường thông qua các doanh nghiệp. Họ nhận được sự đầu tư dồi dào của các doanh nghiệp qua cạnh tranh các hợp đồng nghiên cứu khoa học, dịch vụ tư vấn, đào tạo nhân lực chất lượng cao.

Ở Nhật Bản, công tác giáo dục phát triển nghề nghiệp được tiến hành một cách có hệ thống trong nội bộ các công ty. Nhiều công ty lớn ở Nhật tìm kiếm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng cách kết hợp với các trường đại học để đào tạo và giáo dục mở rộng cho nhân viên. Điều đó đã giúp cho các công ty chủ động trong việc nâng cao chất lượng cán bộ, đồng thời cũng góp phần tăng nguồn thu cho các trường đại học.

Bốn là, các nguồn hỗ trợ, tài trợ tư nhân khác. Trong lúc học phí là nguồn lực tư nhân chủ yếu hỗ trợ cho các trường đại học, vẫn có một số nguồn lực tư nhân khác ngày càng chi phối nhiều trường. Đó là, các khoản hỗ trợ thường đến dưới hình thức quà tặng. Một số trường đại học tư thục như Harvard, Yale, Columbia, Stanford ở Mỹ đã sản sinh ra hàng trăm nhà triệu phú, những nhà triệu phú này quay lại giúp đỡ tài chính cho trường phát triển. Nhiều trường công ở Mỹ và các nước khác cũng gia tăng hoạt động gây quỹ bằng những nỗ lực tăng nguồn lực tư nhân như một cách làm giảm mức bao cấp của ngân sách đối với giáo dục đại học.

Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Từ nghiên cứu việc huy động nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học ở một số quốc gia có nền giáo dục đại học phát triển, có thể nêu lên một số khuyến nghị đối với Việt Nam như sau:

Thứ nhất, tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học đi đôi với đổi mới phương thức cấp phát ngân sách.

Phát triển giáo dục - đào tạo, trong đó, có giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một trong ba đột phá quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Trong thời gian tới, Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển giáo dục đại học. Tuy nhiên, Nhà nước cần đẩy mạnh đầu tư cho một số trường đại học mũi nhọn thay vì đầu tư dàn trải như hiện nay; có biện pháp quản lý chặt chẽ và có hiệu quả đối với các nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thông qua hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng đầu tư và chất lượng đào tạo. Thay đổi phương thức cấp kinh phí cho các trường đại học công lập theo tiêu chí đánh giá ở đầu ra.

Thứ hai, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư phát triển giáo dục.

Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục và giữa các cá nhân tham gia giáo dục là một trong những động lực phát triển giáo dục. Do vậy, trong thời gian tới, để khuyến khích cá nhân đầu tư cho giáo dục đại học cần tập trung vào các nội dung sau:

Xác định rõ ràng, cụ thể các tiêu chí thành lập cơ sở giáo dục, bảo đảm chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các tổ chức kinh tế - xã hội tham gia vào công tác thành lập trường theo quy hoạch phát triển của Nhà nước. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính về việc thành lập các trường đại học dân lập và tư thục theo hướng chất lượng và hiệu quả.

Miễn giảm thuế đối với cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp đầu tư, góp vốn vào các trường đại học. Xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập, trước hết về đất đai, thuế và tín dụng đầu tư.

Thứ ba, các trường đại học cần nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật.

Nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội về chất lượng nguồn nhân lực là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao uy tín và vị thế của các trường đại học. Điều đó sẽ góp phần thu hút ngày càng nhiều sinh viên theo học và do đó các cơ sở đào tạo đại học sẽ có điều kiện tăng nguồn thu.

Xây dựng các trường đại học thành các trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ mạnh là một yêu cầu bức thiết. Việc nghiên cứu khoa học không chỉ giúp cho giảng viên nâng cao trình độ chuyên môn, phục vụ tốt nhu cầu giảng dạy mà còn tăng nguồn thu cho các trường. Hơn nữa, hiện nay nhu cầu chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại từ các cá nhân, các doanh nghiệp là rất lớn, vì vậy, các trường có thể tận dụng khả năng của mình để đáp ứng nhu cầu cho xã hội, tăng nguồn thu cho sự nghiệp giáo dục đào tạo.

Thứ tư, tăng cường gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp.

Hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, trong đào tạo cán bộ... vẫn là xu thế phổ biến trên thế giới. Hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp được coi là mô hình kết hợp nghiên cứu và sản xuất. Sản phẩm cuối cùng của quá trình nghiên cứu là sở hữu của cả hai bên, doanh nghiệp và trường đại học cùng chia sẻ lợi nhuận. Trong quá trình hợp tác này, doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ việc bán sản phẩm. Còn nhà trường có nguồn thu từ việc hợp tác với doanh nghiệp.

Do vậy, các trường đại học cần chủ động thành lập cơ quan điều hành hoạt động hợp tác này trong nhà trường. Có như vậy mới quy tụ được các nhà khoa học giỏi chuyên môn, hình thành đội ngũ nghiên cứu, từ đó hiệu quả hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp được nâng cao, mang lại lợi ích cho các bên tham gia.

Thứ năm, khuyến khích các cá nhân, tổ chức đóng góp từ thiện cho phát triển giáo dục.

Ở Việt Nam hiện nay, việc khuyến khích và đưa ra ý tưởng khuyến khích đóng góp từ thiện từ các cá nhân, tổ chức, các nhà hảo tâm cho các trường đại học chưa được chú trọng. Thông thường, các hoạt động đóng góp, ủng hộ cho sự phát triển của trường chỉ thực sự rầm rộ khi các trường tổ chức các sự kiện lớn, do vậy, chưa thu hút được nhiều và thường xuyên.

Để thu hút được nhiều nguồn tài trợ, đóng góp từ thiện, các trường cần thành lập và duy trì hoạt động thường xuyên của ban liên lạc cựu sinh viên, có hình thức vinh danh đối với những đóng góp của cựu sinh viên và các nhà tài trợ, đồng thời, tuyên truyền sâu, rộng đến cộng đồng để huy động được ngày càng nhiều các nguồn đóng góp. Muốn làm được điều đó các trường cần phải nâng cao chất lượng và uy tín trong đào tạo, nghiên cứu khoa học, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài trợ cho sự nghiệp phát triển của các trường./.

 Tài liệu tham khảo:

1. Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa (năm 2008), Giáo dục và Đào tạo Chìa khóa của sự phát triển, Nxb. Tài chính, Hà Nội

2. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (năm 2010), Kinh nghiệm của một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ tri thức, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội

3. Nguyễn Văn Cần (năm 2007), quá trình cải cách giáo dục ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thời kỳ 1978 - 2003, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

5. Hội đồng Quốc gia Giáo dục Việt Nam (2005), Diễn đàn Quốc tế về giáo dục Việt Nam “Đổi mới Giáo dục Đại học và hội nhập quốc tế”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội