Kinh nghiệm tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Hàn Quốc
TCCSĐT - Chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nói chung và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nói riêng có xu hướng sụt giảm, nhất là bước sang năm 2009. Hơn lúc nào hết, qua giai đoạn này, ngành dệt may nước ta cần xây dựng một chiến lược phát triển để thích ứng với nhiều biến động thị trường, bảo đảm phát triển bền vững. Là một quốc gia châu Á, Hàn Quốc đã thành công trong việc nâng cấp vị thế của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt may, đáng để chúng ta tham khảo...
Khái quát về chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may
Trong thời đại toàn cầu hóa, nền kinh tế của một quốc gia có xu hướng bị chi phối bởi các tập đoàn kinh tế, mà hình thức hoạt động chính là mạng lưới dày đặc các công ty mẹ và chi nhánh các công ty con, cháu ở rất nhiều quốc gia khác nhau. Ở phạm vi quốc tế, các giá trị hình thành từ những công đoạn khác nhau của một ngành kinh doanh nào đó sẽ trở thành dòng chảy giá trị gia tăng toàn cầu, từ đó ra đời khái niệm “chuỗi giá trị toàn cầu”. Trên thế giới, khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu bắt nguồn từ khái niệm “Value chain” (chuỗi giá trị), do Mai-cơn Pót-tơ (Michael Porter) khởi xướng vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Theo ông, chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt động để đưa sản phẩm từ một khái niệm cho đến khi đưa vào sử dụng và cả dịch vụ sau bán hàng. Như vậy, chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động như thiết kế mẫu mã, sản xuất, marketing, phân phối và dịch vụ sau khi bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Những hoạt động này có thể được thực hiện trong phạm vi một doanh nghiệp hoặc được chia sẻ giữa các doanh nghiệp khác nhau.
Chuỗi giá trị có thể được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý hoặc trải rộng trong phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị toàn cầu (Global value chain). Theo cách nhìn này, các doanh nghiệp từ nhiều quốc gia trên thế giới sẽ đóng vai trò như những mắt xích quan trọng và có thể chi phối sự phát triển của chuỗi giá trị. Việc phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo quan điểm chuỗi giá trị chính là một phương pháp hữu hiệu để đánh giá tốt nhất năng lực cạnh tranh, cũng như vai trò và phạm vi ảnh hưởng của quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Xu thế toàn cầu hoá có tác động đến tất cả các nước, đặc biệt là những nước đang phát triển, và điều đó dẫn đến sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng chặt chẽ, do đó các nước dù giàu hay nghèo, dù lớn hay nhỏ, cũng phải tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, nếu như không muốn bị đánh bại trong cuộc chiến toàn cầu của nền kinh tế.
Với khoảng hơn 2000 doanh nghiệp, trong đó đa số có quy mô vừa và nhỏ với những hạn chế về khả năng tài chính, trình độ công nghệ, tay nghề của đội ngũ lao động, trình độ quản lý và cả uy tín thương hiệu, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc cạnh tranh với các tập đoàn dệt may lớn trên thế giới. Việc tham khảo và rút kinh nghiệm từ các nền kinh tế khác khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu nói chung và chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may nói riêng là một việc cần thiết.
Quá trình tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Hàn Quốc
Là một quốc gia mới tham gia vào thị trường hàng dệt may thế giới, không có lực lượng lao động dồi dào và truyền thống lâu đời như Trung Quốc, cũng không có tiềm lực kinh tế, công nghệ như Mỹ, nhưng ngành dệt may Hàn Quốc đã thành công trong việc xây dựng và củng cố vị trí. Từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đã nhanh chóng nổi lên như một hiện tượng thần kỳ trong phát triển kinh tế. Nhiều ngành kinh tế của Hàn Quốc đã giành được vị thế vững mạnh trên thị trường thế giới. Hàn Quốc cũng được biết đến như một ví dụ thành công về tham gia chuỗi giá trị toàn cầu trong các ngành như đóng tàu, điện tử… và đặc biệt là ngành dệt may.
Năm 2004, Hàn Quốc đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu hàng dệt, năm 2005 đứng thứ 5 và năm 2006 giữ vị trí thứ 6 về ngành hàng này trong thương mại quốc tế, sau Trung Quốc, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ và Ấn Độ(1). Đặc biệt, Hàn Quốc còn là quốc gia đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu vải sợi tổng hợp, chiếm 8,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới về mặt hàng này(2). Trong nước, ngành dệt đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thặng dư thương mại: Năm 2004, mức thặng dư thương mại của ngành dệt là 8,8 tỉ USD; năm 2005 là 7,2 tỉ USD, đứng thứ tư trong số các ngành tạo thặng dư thương mại ở Hàn Quốc, sau ngành điện tử, ô tô và thủ công mỹ nghệ. Không những thế, Hàn Quốc còn nhanh chóng nổi lên như một quốc gia dẫn đầu về thời trang trong khu vực, vượt qua các đối thủ đi trước như Nhật Bản, Hồng Công... Những thành công này thể hiện sự đúng đắn trong đường lối phát triển ngành dệt may Hàn Quốc.
Sự phát triển của ngành dệt may Hàn Quốc gắn liền với những yếu tố sau:
Sự ủng hộ của Chính phủ
Ngay sau khi giành được độc lập vào năm 1948, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành từng bước phát triển ngành công nghiệp dệt may, như: đòi lại các nhà máy dệt từ tay người Nhật để giao cho các công ty Hàn Quốc, xây dựng mối liên kết chặt chẽ với các công ty vận tải bông của Mỹ, mở cửa thị trường đi đôi với bảo hộ thị trường nội địa, ưu tiên trợ giúp cả về tài chính và các phương diện khác, ưu tiên cung cấp viện trợ tài chính của Mỹ...
Bước sang những năm 1960, Chính phủ Hàn Quốc chú trọng mở rộng ngành dệt may, từ các các sản phẩm thượng nguồn (upstream) như sản xuất sợi tổng hợp và sợi tự nhiên, đến các khâu trung nguồn như dệt vải, cắt, nhuộm và cả phần hạ nguồn (downstream) như may mặc. Cuối những năm 50 thế kỷ XX, các ngành xe sợi, dệt vải, may mặc đã xuất hiện, tập trung chủ yếu ở Tai-gu và Pu-san. Sự trợ giúp đắc lực của Chính phủ nhằm phát triển ngành dệt may theo hướng xuất khẩu đã thúc đẩy sự phát triển không chỉ của những ngành công nghiệp đã hình thành, mà còn giúp cho những ngành mới như sợi tổng hợp phát triển nhanh chóng.
Tháng 5-1967, Tổ chức Liên hiệp các ngành dệt của Hàn Quốc (KOFOTI – The Korea Federation of Textile Industries) ra đời, nhằm xúc tiến hiện đại hóa công nghiệp dệt, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm ngành dệt của Hàn Quốc. Vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc xây dựng chính sách, tài trợ, nhất là cấp đất đai cho ngành dệt được thực hiện thông qua KOFOTI. Chính phủ đã thành công không chỉ trong việc phát triển ngành dệt may Hàn Quốc thành một ngành công nghiệp đa ngành hướng về xuất khẩu, mà còn bảo đảm nguồn cung cấp với giá cả hợp lý cho các công đoạn khác nhau.
Tuy có những chính sách khác nhau, nhưng Chính phủ Hàn Quốc qua các thời kỳ đều có điểm chung là tập trung khuyến khích phát triển công nghiệp dệt may. Thị trường xuất khẩu mở rộng, nguồn tài trợ của Chính phủ và viện trợ nước ngoài tăng lên giúp ngành dệt hiện đại hóa công nghệ, đáp ứng tốt hơn cả thị trường trong và ngoài nước. Kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhanh chóng nhờ vào hệ thống hạn ngạch hàng dệt may, giúp Hàn Quốc giữ vững thị phần tại Mỹ và các nước bạn hàng khác. Trong thời gian này, Hàn Quốc bắt đầu đặt gia công sản phẩm may mặc ra nước ngoài. Đây cũng chính là biện pháp giúp xuất khẩu hàng dệt tăng lên nhanh chóng để bảo đảm nguồn nguyên liệu cho gia công.
Cùng với sự trưởng thành của các doanh nghiệp và sự ra đời của KOFOTI, Chính phủ đã chuyển hướng từ chỗ là tác nhân phối hợp giữa các công đoạn trong ngành công nghiệp dệt nhằm mở rộng xuất khẩu sang thành cơ quan kiểm soát số lượng, giá cả và cả định hướng trong phân phối những sản phẩm đầu vào quan trọng, từ khâu thượng nguồn đến hạ nguồn của ngành dệt may.
Vai trò của các Cheabol
Cũng như nhiều ngành công nghiệp khác, sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may Hàn Quốc cũng gắn liền với sự lớn mạnh của các Cheabol. Tuy các Cheabol đã bị lên án là tội đồ của khủng hoảng tài chính năm 1997 ở Hàn Quốc, nhưng thực tế cho thấy, giữ được một quy mô lớn về vốn, cũng như một mức độ hợp lý về độc quyền đã làm cho việc sản xuất ổn định và ít bị rủi ro hơn. Riêng trong công nghiệp dệt, hai Cheabol đóng vai trò quan trọng nhất là Dainong và Kolon; Dainong dẫn đầu về sợi bông, còn Kolon dẫn đầu về sợi tổng hợp. Cả hai công ty đều phát triển rất nhanh chóng, có mối quan hệ mật thiết với Chính phủ, đầu tư sản xuất trong nhiều lĩnh vực khác nhau và đều chú trọng liên kết hoạt động marketing với sản xuất, kiểm soát chặt chẽ việc gia tăng giá trị theo liên kết ngang (từ sản xuất đến marketing) và theo liên kết dọc (theo tiến trình sản xuất).
Ở Hàn Quốc, quan hệ gia đình cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập và phát triển các Chaebol, điển hình như Tập đoàn Dệt may Kolon. Kolon đã vượt qua khủng hoảng tài chính châu Á khá thành công và cho đến nay vẫn là tập đoàn đóng vai trò quan trọng trong ngành dệt may Hàn Quốc. Tập đoàn được thành lập năm 1948, khởi đầu bằng Công ty Samgyong Mulsan tại Nhật Bản, xuất khẩu sợi nylon vào Hàn Quốc với người sáng lập Công ty là Yi Weonman. Vào thời gian đó, con trai ông điều hành một công ty khác ở Sê-un để nhập khẩu mặt hàng này. Năm 1957, hai công ty sáp nhập lại để thành lập Korea Nylon. Đến năm 1962, công ty này liên doanh với Chemtex, một công ty hóa chất nổi tiếng của Mỹ để sản xuất sợi tổng hợp, công suất lên đến 2,5 tấn/ngày. Đến năm 1969, Kolon liên doanh với Toray Industries, một công ty hàng đầu về sợi polyester của Nhật Bản, thành lập Korea Polyester với công suất 20 tấn sợi polyester/ngày. Cách tạo những liên doanh chiến lược này đã giúp Kolon chiếm vị trí độc tôn trên thị trường Hàn Quốc về sản phẩm polyester thời ấy và là công ty đứng thứ 2 Hàn Quốc về sản phẩm nylon và polyester.
Kinh nghiệm tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Hàn Quốc
Có thể nói, Hàn Quốc đã chọn một con đường khác biệt để gia nhập thị trường quốc tế. Bên cạnh những yếu tố khách quan thuận lợi thời đó như nguồn viện trợ dồi dào của Mỹ, sự non yếu của các nước láng giềng..., không thể phủ nhận vai trò của những yếu tố nội tại trong việc nâng cấp vị thế của Hàn Quốc trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành dệt may, như:
1. Chính sách ưu tiên phát triển ngành dệt may của Chính phủ:
Sau khi chiến tranh Triều Tiên chấm dứt, Chính phủ Hàn Quốc đã chú trọng mở rộng ngành dệt may, từ các các sản phẩm thượng nguồn như sản xuất sợi tổng hợp và sợi tự nhiên, đến các khâu trung nguồn như dệt vải, cắt, nhuộm và cả phần hạ nguồn như như may mặc. Các công ty ngành dệt liên kết với nhau trong Hội Liên hiệp Sợi và Dệt, phối hợp chặt chẽ ở cả thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước để các doanh nghiệp tự do hoạt động trên thị trường, chỉ trợ giúp bằng cách bảo đảm nguồn cung cấp nguyên vật liệu, trợ giúp hoạt động xuất khẩu như đưa ra hệ thống hạn ngạch để quản lý xuất khẩu hàng may mặc của Hàn Quốc, khuyến khích các công ty nội địa bố trí hoạt động trên hầu hết các khâu, từ thượng nguồn đến hạ nguồn.
2. Chú trọng đến chất lượng và mẫu mã sản phẩm:
Xuất thân là một nước nông nghiệp nghèo với nguồn tài nguyên hạn chế, cho đến những năm 70 của thế kỷ XX, hàng hóa của Hàn Quốc vẫn chưa có uy tín cả ở trong và ngoài nước. Nhưng khi xây dựng ngành dệt may, cả Chính phủ và các doanh nghiệp đều rất chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngày nay, không chỉ các khâu thượng nguồn như xe sợi, dệt vải được chú trọng, mà cả ngành tạo mẫu và phân phối ở Hàn Quốc cũng rất phát triển. Hàng dệt may Hàn Quốc được đánh giá cao không chỉ vì nguyên liệu có chất lượng tốt, mà còn ở mẫu mã sản phẩm, đi kèm là hệ thống phân phối chuyên nghiệp và hiệu quả. Ngành dệt may Hàn Quốc đã chiếm vị trí độc tôn trên thị trường nội địa. Trên thị trường nước ngoài, hàng dệt may xuất khẩu của Hàn Quốc cũng có uy tín cao, nhất là tại các nước châu Á.
3. Tinh thần lao động cần cù của người dân và vai trò nổi bật của các Chaebol:
Người Hàn Quốc nổi tiếng về tinh thần lao động cần cù và tính kỷ luật cao. Cho đến nay, số giờ lao động của người Hàn vẫn thuộc loại cao nhất trên thế giới(3). Sau chiến tranh, Chính phủ đã kêu gọi người dân thắt lưng buộc bụng, làm việc chăm chỉ với mức lương khiêm tốn. Nhờ vậy, Hàn Quốc đã nhanh chóng tích lũy được một số vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng cấp trang thiết bị cho các ngành công nghiệp, trong đó có ngành dệt may.
Bên cạnh đó, một mô hình tổ chức kinh doanh đặc thù của Hàn Quốc là các Chaebol cũng đóng góp vai trò quan trọng vào sự thành công của kinh tế Hàn Quốc nói chung, ngành dệt may nói riêng. Dù còn nhiều tranh cãi về cách thức hoạt động, nhưng không thể phủ nhận sự năng động, tinh thần vươn lên của các Chaebol đã đóng vai trò quyết định trong thành công của nền kinh tế Hàn Quốc. Được sự ủng hộ của Chính phủ, quy mô và vị thế độc quyền của các Chaebol đã giúp ngành công nghiệp dệt may của Hàn Quốc dễ dàng mở rộng quy mô sản xuất, hạ giá thành sản phẩm các nguyên liệu cho ngành dệt may. Một số lượng lớn nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu Việt Nam được nhập từ Hàn Quốc. Các công ty Hàn Quốc cũng tham gia tích cực trong chuỗi giá trị toàn cầu ở nước ngoài với việc đầu tư vào khâu phân phối tại các nước nhập khẩu.
4. Phát huy vai trò của văn hóa trong marketing xuất khẩu hàng dệt may:
Thời gian gần đây, việc tham gia GVC dệt may của Hàn Quốc được tạo thuận lợi nhờ Hallyu (Korean wave – làn sóng Hàn Quốc), do phim ảnh, âm nhạc đem lại, dẫn đến trào lưu ưa chuộng sản phẩm thời trang Hàn Quốc ở hầu hết các nước châu Á. Yếu tố văn hóa quan trọng này đã góp phần thúc đẩy việc xuất khẩu sản phẩm may mặc của Hàn Quốc sang các quốc gia châu Á láng giềng như: Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản.... Nhờ vậy, khi kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường Mỹ, Tiểu vương quốc A-rập thống nhất... có xu hướng giảm sút thì xuất khẩu sang Trung Quốc và Việt Nam lại tăng lên (13% và 35,8% năm 2003)(4). Những năm gần đây, không chỉ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Trung Quốc và Việt Nam đều tăng, mà cả sang các quốc gia châu Á khác như In-đô-nê-xi-a và A-rập Xê-út cũng tăng lên (7,6% và 16% năm 2005)(5).
Bên cạnh những bài học thành công, chúng ta cũng có thể học hỏi, rút kinh nghiệm từ một số hạn chế của ngành dệt may Hàn Quốc:
Trước hết, cũng như hầu hết các nước xuất khẩu hàng dệt may khác, từ năm 2004 đến nay, công nghiệp dệt may của Hàn Quốc có xu hướng đình trệ vì bị hàng hóa của các nước Đông Nam Á cạnh tranh mạnh mẽ. Đặc biệt sau khi Hiệp định ATC hết hiệu lực, làn sóng hàng giá rẻ từ Trung Quốc và các nước Đông Nam Á tràn vào, đã gây ảnh hưởng không chỉ đến hoạt động xuất khẩu, mà đến cả thị trường nội địa của Hàn Quốc. Do chi phí sản xuất cao, hàng dệt may Hàn Quốc vốn dựa vào chất lượng và thiết kế để thu hút khách hàng, nhưng nay đang mất dần vị thế trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng Trung Quốc, đặc biệt là khi quốc gia này không còn bị hạn chế bởi hạn ngạch. Hàng ren Trung Quốc giá rẻ hơn từ 20 đến 30% mà trông hoàn toàn như nhau(6) - như hàng Hàn Quốc, nên nhiều công ty nước ngoài quay sang mua hàng Trung Quốc. Kết quả là năm 2006, xuất khẩu hàng dệt may của Hàn Quốc bị suy giảm rõ rệt cả về kim ngạch và thị phần; kim ngạch xuất khẩu hàng dệt giảm 2,70%, hàng may mặc bị giảm tới 15,42%. Trong khi đó, nhập khẩu hàng dệt may lại tăng trưởng khá nhanh: 10,39% và 28,53%, chủ yếu là hàng giá rẻ từ Trung Quốc và các nước Đông Nam Á như Việt Nam, In-đô-nê-xi-a...
Thứ hai, phương thức xuất khẩu chưa hợp lý: Cho đến nay, hầu hết các công ty Hàn Quốc thường xuất khẩu thông qua đại diện của các công ty nước ngoài đặt tại Hàn Quốc, mà không có quan hệ trực tiếp với đối tác, nên giá thành sản phẩm bị tăng lên. Vì vậy, gần đây, Chính phủ Hàn Quốc đang tích cực trợ giúp các doanh nghiệp dệt may tham gia các cuộc triển lãm, hội chợ ở nước ngoài, nhằm giúp các doanh nghiệp thiết lập quan hệ trực tiếp với khách hàng, từ đó đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và cải thiện phương thức tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Và Hàn Quốc cũng không thể là ngoại lệ đối với quy luật dịch chuyển rất đặc thù của ngành dệt may là từ nơi giá lao động cao sang nơi thấp. Khi giá lao động trong nước đã tăng cao thì sự tồn tại của các cơ sở dệt may phải dựa chủ yếu vào sức mạnh của thương hiệu để cung cấp thiết kế mẫu mã (designs), nguyên vật liệu và đặt hàng gia công ở những nước có giá nhân công rẻ hơn./.
(2) Status of Korea and World Textile Industry, Textile and Fashion Korea Magazine, 2007
(3) http://en.wikipedia.org/wiki/Working_time
(4) www.kofoti.com
(5) Status of Korea and World Textile Industry, Textile and Fashion Korea Magazine 2007
(6) Asian Mills Seek Direct Contact With U.S. Market, Women's Wear Daily, Issue 57
Thay đổi và... lại thay đổi  (08/09/2009)
Kiều bào tại Ô-xtrây-li-a là bộ phận không thể tách rời của dân tộc  (07/09/2009)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm