Dân chủ và nhân quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh

PGS, TS. Nguyễn Thanh Tuấn Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quyền con người
23:42, ngày 09-09-2014
TCCSĐT - Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nhân quyền có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Mối quan hệ giữa dân chủ và nhân quyền

Dân chủ không chỉ là quyền con người về chính trị, mà theo nghĩa rộng, là thể chế chính trị bảo đảm và thực hành quyền con người, cơ bản là quyền công dân; còn quyền con người là kết quả cao nhất của một chế độ dân chủ cụ thể. Mối quan hệ giữa dân chủ và nhân quyền được thể hiện thông qua hai phương diện sau:

Một là, dân chủ và nhân quyền biểu hiện cho sự thống nhất các quan hệ văn hóa - chính trị

Kế thừa tư tưởng của C. Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận quyền con người không phải là một phạm trù trừu tượng, cũng không phải là “đặc quyền tự nhiên” được mặc nhiên thừa nhận, hay được ban tặng, xa rời tính hiện thực, mà luôn luôn là sản phẩm giành được của con người trong cuộc đấu tranh với thế giới tự nhiên, xã hội và bản thân, đặc biệt trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột gắn với trình độ phát triển kinh tế - văn hóa trong mỗi thời kỳ lịch sử của dân tộc và nhân loại. Vì thế, dân chủ và nhân quyền luôn mang bản sắc văn hóa dân tộc và tính giai cấp. Không thể có dân chủ, nhân quyền chung chung cho người bóc lột và người bị bóc lột, cho các dân tộc, giai cấp thống trị và các dân tộc, giai cấp bị trị. Và cũng không có dân chủ, nhân quyền cho mọi chế độ xã hội, mà chỉ có dân chủ, nhân quyền phụ thuộc vào mỗi nền văn hóa dân tộc, mỗi phương thức sản xuất nhất định và mỗi chế độ chính trị - xã hội nhất định. Dân chủ và nhân quyền không thể thoát ly nền văn hóa dân tộc; và không thể cao hơn chế độ kinh tế chính trị của mỗi quốc gia.

Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, văn hóa dân tộc đạt đỉnh cao thì bắt gặp và trở thành văn hóa nhân loại. Nghĩa là giá trị văn hóa nhân loại không phải là những giá trị trừu tượng, hư vô, mà là kết quả tích hợp giá trị văn hóa đỉnh cao của các dân tộc lớn, nhỏ trên thế giới. Quá trình giá trị văn hóa đỉnh cao của các dân tộc bắt gặp và trở thành văn hóa nhân loại thông qua giao lưu. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “ta phải “giữ cốt cách dân tộc”, còn phương Đông hay phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt là phải học lấy để tạo ra nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”(1). Vấn đề dân chủ, nhân quyền, cũng không vận động ngoài phương châm đó.

Hai là, dân chủ và nhân quyền thể hiện sự thống nhất giữa quyền công dân và quyền con người thông qua quan hệ pháp lý và các hình thức tự quản trong xã hội

Trước đây C. Mác đặt vấn đề: “Tại sao thành viên của xã hội công dân lại được gọi là “con người”, chỉ được gọi đơn giản là “con người”, còn tại sao quyền của nó lại được gọi là nhân quyền? Điều đó là do đâu?”(2). Và C. Mác trả lời: “Chỉ là do quan hệ giữa nhà nước chính trị và xã hội công dân, do bản chất của giải phóng chính trị”(3). Theo C. Mác, quyền con người, cơ bản thể hiện ở quyền công dân, nhưng không đồng nhất với quyền công dân. Hai quyền đó luôn nằm trong một chỉnh thể thống nhất biện chứng.
Kế thừa tư tưởng này của C. Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng cả hai thuật ngữ nhân quyền và dân quyền (quyền công dân). Người luôn luôn coi trọng mối quan hệ thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân, nhằm thực hiện quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người Việt Nam trên cơ sở bảo đảm và giữ vững các quyền dân tộc cơ bản của đất nước Việt Nam. Mặc dù, tính thống nhất của các quyền con người và quyền công dân thể hiện ở chỗ đều ghi nhận các quyền cá nhân của con người, song Chủ tịch Hồ Chí Minh không đồng nhất hai khái niệm đó trên cả hai phương diện: chủ thể của quyền và nội dung của quyền.

Về chủ thể của quyền, ngoài công dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến những người không phải là công dân như tù binh, hàng binh nước ngoài, người nước ngoài, Việt kiều, những người bị pháp luật tước quyền công dân. Chẳng hạn, Người tặng áo cho hàng binh bị rét trong Chiến dịch biên giới (năm 1950); hay đặt niềm tin về tính thiện có trong tiềm thức sâu sa của những tù thường phạm. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu quý và đặt niềm tin vào các cháu nhi đồng, thiếu niên - những người chưa đủ tuổi được thụ hưởng và thực hiện quyền công dân.

Trong Nghị quyết của Quốc dân Đại hội Tân Trào (tháng 8-1945) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì biên soạn có phân biệt nội dung dân quyền gồm: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền”(4). Nhìn chung, thông qua Hiến pháp 1946 và 1959, có thể thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh phân chia nội dung các quyền con người gồm: a) Các quyền tự do dân chủ về chính trị; b) Các quyền dân sự hay các quyền tự do cá nhân; c) Các quyền về kinh tế - xã hội.

Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền con người và quyền công dân, cơ bản và chủ yếu phải được ghi nhận trong các văn bản pháp lý (Hiến pháp, luật pháp) theo phương châm “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Bởi lẽ, quyền con người, quyền công dân phải thể chế hóa thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể, có tính phổ cập, tính xã hội hóa, không phân biệt “nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Phải thông qua Hiến pháp, pháp luật thì các giá trị của con người mới trở thành quyền năng, trách nhiệm được xác định về pháp lý của nhà nước và được bảo đảm về chế độ chính trị, để có thể trở thành hiện thực trong thực tế. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền lực của nhân dân trên hai phương diện gắn bó với nhau là quyền con người và quyền công dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật để hợp pháp hóa việc nhân dân được tham gia vào các công việc Nhà nước; quyền con người và quyền công dân được thực thi bằng phương thức dân chủ cơ bản thông qua cơ chế bầu cử, ứng cử, bãi miễn, kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước và phân công, giám sát bộ máy nhà nước. Việc hợp pháp hóa quyền con người bằng quy định pháp lý là dấu hiệu đặc trưng của nhân quyền, so với các khái niệm khác liên quan đến đời sống xã hội của con người, như nhu cầu, lợi ích, đạo đức...

Nhưng đối với Hồ Chí Minh, việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và pháp luật là chưa đủ. Bởi vì, quyền con người nói chung, trong đó có quyền công dân, là một thể thống nhất như chính bản thân con người với tư cách là một chủ thể “tổng hòa các quan hệ xã hội”, vừa cụ thể với những nội dung hiện thực theo yêu cầu của cuộc sống “ở đây và lúc này”, vừa là xu hướng với những hoài bão, lý tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc và chủ nghĩa xã hội của con người. Cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng coi trọng việc kế thừa, phát huy vai trò điều chỉnh của hương ước có tính tự quản của làng (xã) cổ truyền.

Tuy Người không nêu thành nguyên tắc “pháp trị”, “đức trị”, “nhân trị”, nhưng thực tế Người đã kết hợp chặt chẽ giữa luật pháp nhà nước với tuyên truyền, giáo dục đạo đức thông qua hoạt động của Đảng và các tổ chức đoàn thể xã hội, cũng như nêu gương điển hình, mà Người tự mình nêu gương trước. Đối với Người, “một tấm gương sống có giá trị hơn trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Thông qua đó, Người giữ chữ Tín với mọi người và nâng tầm con người để thực hiện được các giá trị hiện thực của con người, chủ yếu thông qua quyền công dân, đồng thời hướng con người đến những giá trị tốt đẹp cùng với phần xấu bị mất dần đi trong quan hệ người - người.

Có thể nói, tư tưởng dân chủ, nhân quyền của Hồ Chí Minh là có tính hiện thực và tính nhân văn sâu sắc. Chính vì thế, tư tưởng đó có sức sống lâu dài. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1992, theo tư tưởng của Người, lần đầu tiên trong lịch sử Hiến pháp Việt Nam đã dành Điều 50 để xác định quyền con người ở nước ta. Hiến pháp năm 2013 đã dành dung lượng đáng kể quy định quyền con người, quyền công dân. Thực hành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nhân quyền hiện nay, đã và sẽ là nền tảng và kim chỉ nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân.

Cơ chế dân chủ để bảo đảm và thực hiện quyền con người

Cơ chế dân chủ có thể hiểu là phương thức vận hành bộ máy dân chủ trên cơ sở thiết chế dân chủ và quy chế dân chủ. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, quy chế dân chủ cơ bản và chủ yếu là Hiến pháp, pháp luật; và quy chế dân chủ truyền thống, ở cơ sở là hương ước làng (xã). Để bảo đảm và thực hiện quyền con người. Cơ chế dân chủ được vận hành theo hai nguyên tắc sau:

Thứ nhất, bảo đảm tính hợp pháp, hợp hiến của chế độ dân chủ

Năm 1919, Hồ Chí Minh đại diện cho nhóm trí thức Việt Nam yêu nước đã gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Véc-xay (Pháp). Trong đó có yêu cầu: “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu”; thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; người An Nam có đoàn đại biểu thường trực tại Nghị viện Pháp(5). Đến năm 1922, Người đã chuyển bản yêu sách trên thành Việt Nam yêu cầu ca, nhằm phổ biến sâu rộng trong người Việt Nam. Trong đó có hai câu(6):

“Bảy xin Hiến pháp ban hành

Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.

Kế thừa “phép trị nước” của truyền thống văn hóa chính trị dân tộc, và tinh hoa văn hóa chính trị phương Đông, phương Tây, do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa “pháp trị”, “đức trị” hay “nhân trị”; nhưng rõ ràng trong tư tưởng của Người, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp.

Khi chính quyền mới chưa được tổ chức thông qua tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu và chưa thông qua được Hiến pháp theo con đường dân chủ, Người đã cố gắng bảo đảm cho chính quyền có tính hợp pháp. Cụ thể vào đầu tháng 8-1945, mặc dù “thời cơ cách mạng” rất khẩn trương, Người cũng kiên quyết triệu tập “Đại hội quốc dân Tân Trào” để cử ra “Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam”. Đây là tổ chức “tiền Chính phủ” được đại biểu của nhân dân bầu ra một cách dân chủ, nhằm lãnh đạo nhân dân giành độc lập. Sau khi giành được độc lập, Người xác định cần phải có bản Tuyên ngôn độc lập và tổ chức Lễ độc lập để tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới về sự “khai sinh” của nước Việt Nam mới. Tuyên ngôn độc lập do Người đọc tại Lễ độc lập ngày 02-9-1945 đã khẳng định nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là hợp pháp.

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ ba là “phải có một Hiến pháp dân chủ”. Và Người đề nghị: “Sớm tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Tiếp đó, Người khẩn trương tổ chức soạn thảo Hiến pháp mới. Hiến pháp được thảo luận dân chủ và được thông qua vào tháng 10-1946 tại kỳ họp thứ hai Quốc hội. Bản Hiến pháp đó “là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong toàn cõi Á Đông”(7). Sau này, vào năm 1959, Người tiếp tục chủ trì soạn thảo Hiến pháp sửa đổi, nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Với tính cách là đạo luật cơ bản, Hiến pháp 1946 và 1959 bảo đảm cho việc thực hiện thể chế dân chủ nhằm thực thi quyền công dân, quyền con người một cách hợp hiến, hợp pháp.

Thứ hai, dân chủ phải được thực hành bằng cách thức dân chủ

Đối với nhân dân: Nhân dân phải được tham gia vào “công việc nhà nước”, nhằm thực hiện quyền lực của mình. Theo Hồ Chí Minh, “nhà nước của ta là nhà nước dân chủ”, cho nên “Đảng cầm quyền”, nhưng dân là chủ. “Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân”. Nhân dân tham gia vào công việc nhà nước theo nguyên tắc “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân... Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động”(8).

Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước. Hiến pháp năm 1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo, đã khẳng định: Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân... Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Đối với Nhà nước: Chính quyền nhà nước phải được hình thành và được thực hiện bằng con đường dân chủ một cách hợp pháp, hợp hiến. Quốc hội, theo Người, phải được hình thành bằng bầu cử phổ thông đầu phiếu. Hiến pháp năm 1946, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, xác định Nhà nước phải có bộ máy hành chính mạnh, có hiệu lực, điều hành bằng pháp luật; mọi quyền dân chủ phải được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật, và đòi hỏi công dân phải thực hiện nghiêm minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ tư pháp thực hiện nguyên tắc “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”, để bảo đảm tính nghiêm minh, “không trừ một ai” trong thi hành pháp luật, nhằm phụng sự nhân dân. Người yêu cầu Chính phủ phải làm gương; và nếu không làm gương thì phải dùng pháp luật để trị, đặc biệt đối với những kẻ hối lộ, tham nhũng.

Để Nhà nước có thể được tổ chức và vận hành một cách dân chủ, Hiến pháp 1946 và 1959, dưới sự chỉ đạo biên soạn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có sự phân tách ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ở Hiến pháp 1946, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Nghị viện nhân dân, do “công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm một lần” (Điều 24). Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân trực tiếp bầu ra (Điều 58). Cơ quan hành pháp gồm Chính phủ và Ủy ban hành chính các cấp. Cơ quan tư pháp là tòa án nhân dân hoạt động công khai (Điều 67), chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử (Điều 69). Đến Hiến pháp 1959, Nghị viện nhân dân được đổi tên thành “Quốc hội”; bộ máy tư pháp có thêm hệ thống Viện kiểm sát nhân dân các cấp.

Thực tế đó cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung quyền lực vào “Xôviết” trong quan điểm chuyên chính vô sản của V.I. Lênin. Tất nhiên, Người không phân chia quyền lực nhà nước theo chế độ đại nghị hay cộng hòa tổng thống như các nước tư sản, mà đề xuất và hiện thực hóa tổ chức quyền lực nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo phương châm: cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất, chế ước lẫn nhau giữa các bộ phận hợp thành, phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng chính trị truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc” và tư tưởng công chức nhà nước là “công bộc của dân” trong kinh điển Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi, mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ nhân dân lao động và vì lợi ích của nhân dân lao động theo nguyên tắc: Việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(9).

Đối với Đảng: Để điều tiết và định hướng quyền làm chủ của nhân dân và quyền quản lý của Nhà nước, tất yếu phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để bảo đảm dân chủ trong xã hội, Đảng cầm quyền phải trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và phải gắn bó mật thiết với nhân dân. Đảng phải lo cho dân, từ đời sống kinh tế, văn hóa đến phát triển con người; và Đảng phải thực hành dân chủ trong Đảng./.

-----------------------------------------------

Chú thích:

(1) Hồ Chí Minh: Bài nói tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, tháng 11-1946. Dẫn theo Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, sđd, tr.297-298.

(2), (3) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.1, tr.549.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t.7, tr.560.

(5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG,H. t.1, tr.435-436; tr.438

(7), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.4, tr.440; tr.152

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.5, tr.65