Quan niệm của Ph. Ăngghen về sự phát triển của gia đình và một số xu hướng biến đổi của gia đình ở Việt Nam hiện nay
Trong lịch sử phát triển của xã hội, gia đình luôn có vị trí đặc biệt. Từ trong gia đình, con người được sinh ra và trưởng thành, được nuôi dưỡng và giáo dục để hội nhập vào cuộc sống cộng đồng. Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng diễn ra sâu rộng đã tác động toàn diện đến gia đình ở Việt Nam, làm cho gia đình ở Việt Nam có nhiều biến đổi. Sự biến đổi này không chỉ có mặt tích cực mà gồm cả mặt tiêu cực, không chỉ thuận chiều mà cả ngược chiều đối với cả gia đình và xã hội.
Quan niệm của Ph. Ăngghen về sự phát triển của gia đình
Tư tưởng chủ đạo của Ph. Ăngghen về gia đình và sự phát triển của gia đình được trình bày tập trung trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước viết vào năm 1884. Trong tác phẩm này, Ph. Ăngghen đã đứng trên quan điểm duy vật lịch sử, tập trung làm rõ nhiều vấn đề quan trọng như nguồn gốc, vị trí, vai trò, các hình thức phát triển của gia đình trong lịch sử... Bài viết xin đề cập một số luận điểm của Ph. Ăngghen về sự biến đổi các hình thức gia đình trong lịch sử, từ đó vận dụng vào việc phân tích xu hướng biến đổi chủ yếu của gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Khi nghiên cứu về gia đình, Ph. Ăngghen đã xuất phát từ sự phát triển của sản xuất vật chất. Ông cho rằng, “… nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt, là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác, là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình” (1). Quan điểm trên của Ph. Ăngghen đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phát triển của gia đình, trong đó, các quan hệ gia đình bị chi phối bởi sự phát triển của sản xuất, đồng thời, các quan hệ gia đình lại có ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội khác.
Đặc biệt, Ph. Ăngghen đã chỉ ra sự phát triển của các hình thức gia đình trong tương quan với sự biến đổi của phương thức sản xuất vật chất, từ đó đưa ra những quan niệm khoa học về sự biến đổi của các hình thức gia đình trong lịch sử phát triển xã hội. Qua khảo cứu lịch sử, Ph. Ăngghen nhận thấy, trong thời kỳ đầu tiên của lịch sử nhân loại đã từng tồn tại những hình thức khác nhau của chế độ quần hôn, sau đó xuất hiện hôn nhân đối ngẫu, kết hợp những đôi riêng lẻ trong một thời kỳ nhất định, cuối cùng, chế độ hôn nhân một vợ, một chồng xuất hiện.
Gia đình huyết tộc là hình thức thấp của chế độ quần hôn, được hình thành trên cơ sở kết hôn của những người cùng thế hệ trong một huyết tộc, nghĩa là hôn nhân mang tính quần hôn giữa những người đàn ông và những người đàn bà có thể là anh em của nhau. Gia đình huyết tộc ra đời dựa trên chế độ kinh tế cộng sản nguyên thủy, ở đó tài sản thuộc về cộng đồng. Trong hình thức gia đình đó, các con không thể biết chính xác ai là bố đẻ của mình, trong khi đó có thể xác định một cách chắc chắn người mẹ, đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu hình thành nên chế độ mẫu quyền.
Gia đình Punaluan được hình thành trên cơ sở hình thức kết hôn tiến bộ hơn gia đình huyết tộc, đã xóa bỏ hình thức kết hôn của những người cùng thế hệ trong một huyết tộc. Mặc dù hình thức gia đình này có nhiều biến đổi theo hướng tiến bộ hơn, tuy nhiên, con cái vẫn chỉ xác định được mẹ và người phụ nữ có vai trò quyết định đến sự tồn tại của gia đình.
Gia đình cặp đôi là hình thức gia đình xuất hiện vào thời kỳ cuối của xã hội nguyên thủy. Cơ sở hình thành của hình thức gia đình này là kết hôn từng cặp, tuy vậy, sự liên kết này còn lỏng lẻo, chưa bền vững, một bên có thể cắt đứt mối quan hệ này và con cái chỉ thuộc về người mẹ.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động, ảnh hưởng của người phụ nữ trong đời sống kinh tế và quan hệ xã hội dần giảm sút. Lúc này, vai trò của người đàn ông ngày càng lớn và dần giữ địa vị thống trị trong gia đình, khiến cho người đàn ông có xu hướng đảo ngược trật tự thừa kế cổ truyền nhằm có lợi cho con mình. Sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chính là nguyên nhân xuất hiện hình thức gia đình một vợ, một chồng - còn gọi là chế độ hôn nhân cá thể. Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng ra đời chính thức xác lập quan hệ một người đàn ông chỉ có một người vợ và ngược lại. Về hình thức, đó là sự cặp đôi. Tuy nhiên, nếu như trong gia đình cặp đôi, những quan hệ kinh tế còn quá yếu ớt và nhu cầu cặp đôi giữa một người đàn ông và một người đàn bà chỉ thuần túy là nhu cầu tình cảm, thì trong gia đình một vợ, một chồng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, quan hệ giữa một người đàn ông và một người đàn bà chủ yếu dựa trên những điều kiện kinh tế.
Coi hôn nhân cá thể là hình thức của xã hội văn minh, Ph. Ăngghen đã đưa ra dự báo về sự biến đổi của gia đình tương lai, khi mà nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ, nền sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập thì cũng xuất hiện một kiểu gia đình mới. Trong xã hội đó, tình yêu và hôn nhân là tự nguyện của cả người đàn ông và người đàn bà, là nhu cầu bức thiết của con người tự do và là cơ sở, nền tảng để xây dựng gia đình một vợ, một chồng hạnh phúc, bền vững.
Một số xu hướng biến đổi của gia đình ở Việt Nam hiện nay
Mặc dù có nhiều biến đổi so với kiểu gia đình truyền thống nhưng gia đình ở Việt Nam hiện nay chưa phải là kiểu gia đình hiện đại. Gia đình hiện đại phải là sản phẩm của xã hội công nghiệp, đạt đến trình độ văn minh cao, trong khi đó, hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, các quan niệm cổ truyền vẫn còn ảnh hưởng nặng nề trong đời sống tinh thần của xã hội. Sự biến đổi của gia đình ở Việt Nam hiện nay diễn ra khá toàn diện nhưng tập trung vào một số điểm sau:
Thứ nhất, biến đổi về hôn nhân. Do tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, quan niệm về hôn nhân truyền thống đã có nhiều thay đổi, những cải cách về luật pháp đã hợp pháp hoá quyền tự do lựa chọn và đảm bảo sự bình đẳng nam nữ trong hôn nhân, đồng thời cũng làm nảy sinh ở thanh niên những nhận thức sai lệch, như xu hướng thực dụng trong hôn nhân, không ít người lấy nhau, bỏ nhau vì động cơ tiền tài, địa vị, danh vọng. Bên cạnh đó, tình trạng “sống thử” của một bộ phận giới trẻ hiện nay cũng đang diễn biến nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự bền vững của gia đình và sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, sự biến đổi về cấu trúc, quy mô gia đình. Trong những năm qua, ở Việt Nam đã thực hiện khá tốt chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, cùng với đó, trình độ dân trí từng bước được nâng cao nên quy mô gia đình ở Việt Nam ngày càng có xu hướng thu nhỏ. Trong gia đình truyền thống ở Việt Nam có thể tồn tại đến ba bốn thế hệ cùng chung sống dưới mái nhà, thì hiện nay, xu hướng gia đình hạt nhân ngày càng gia tăng, tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong gia đình có điều kiện để phát triển tự do cá nhân. Tuy nhiên, kiểu gia đình này cũng có những hạn chế nhất định, như mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngày càng trở nên lỏng lẻo, sự quan tâm của con cháu đối với cha mẹ, ông bà bị giảm sút... Đó là nguy cơ để các tệ nạn xã hội có điều kiện nảy nở, thâm nhập và tàn phá gia đình. Bên cạnh gia đình hạt nhân là phổ biến, xã hội cũng xuất hiện những kiểu gia đình mới, như gia đình của người độc thân, gia đình chỉ có bố hoặc mẹ sống với con cái... Đây là những hình thức gia đình, một mặt, nó phản ánh sự thay đổi của gia đình dưới tác động của điều kiện kinh tế - xã hội, mặt khác, nó cũng phản ánh sự tan rã của mô hình gia đình truyền thống đã từng tồn tại nhiều thế kỷ ở Việt Nam.
Thứ ba, sự biến đổi về chức năng của gia đình. Dưới tác động của hội nhập quốc tế, các chức năng của gia đình ở Việt Nam có những thay đổi cơ bản, như: chức năng tái sản xuất ra con người; chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình; chức năng giáo dục; chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm. Trong những biến đổi đó, chức năng giáo dục của gia đình đang bị tác động mạnh. Trong xã hội truyền thống, giáo dục gia đình đề cao vai trò của cha mẹ, đặc biệt là ông bà - những người có nhiều kinh nghiệm, bảo lưu các giá trị truyền thống trong việc giáo dục con cháu. Một đứa trẻ sinh ra và lớn lên được định hình nhân cách bằng sự quan tâm, yêu thương, khuyên nhủ, động viên của ông bà, cha mẹ. Trong gia đình hiện nay, xu hướng gia đình hạt nhân phát triển đang dần hạn chế vai trò của ông bà trong việc giáo dục con cháu. Hơn nữa, nhiều cha mẹ hiện nay “phó mặc” chức năng giáo dục con cái cho nhà trường và xã hội, vai trò của cha mẹ trong việc thực hiện chức năng này đã bị đơn giản hóa chỉ là cung cấp tiền bạc cho con cái đi học. Theo kết quả điều tra, thời gian cha mẹ dành để giáo dục con cái từ 1 đến 2 giờ mỗi ngày chiếm 49,8% số cha mẹ được hỏi. Số cha mẹ dành từ 2 đến 4 giờ/ngày chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ là 29,4% (2). Sự buông lỏng của giáo dục gia đình trong những năm vừa qua là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng như trẻ em lang thang, phạm tội hay rơi vào các tệ nạn xã hội, bạo lực học đường, tội phạm vị thành niên... ngày càng gia tăng, đồng thời, cũng phản ánh những bất ổn trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em hiện nay.
Thứ tư, biến đổi về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Trong xã hội truyền thống, vị thế của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội rất thấp, họ không được tham gia vào các hoạt động xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu của phụ nữ là sinh con, tề gia, nội trợ, chăm sóc gia đình... Hiện nay, do tác động của điều kiện kinh tế, chính trị mà phân công lao động trong gia đình thay đổi, giải phóng người phụ nữ ra khỏi những quan niệm và công việc cổ truyền. Xu hướng chung là phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội tham gia vào các hoạt động xã hội. Họ có công việc ổn định để đảm bảo cuộc sống, có cơ hội học tập nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, một xu hướng mới là ngày càng có nhiều người đàn ông đảm nhiệm những công việc trước đây vốn được coi là của phụ nữ. Sự thay đổi chức năng của các cá nhân trong gia đình làm cho sự bất bình đẳng giữa hai giới đang dần được thu hẹp.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, phụ nữ Việt Nam nói chung, nhất là phụ nữ ở khu vực nông thôn hiện nay vẫn phải đảm nhiệm hầu hết các công việc trong gia đình, do vậy họ có ít thời gian chăm sóc bản thân, tham gia công tác xã hội và hoạt động vui chơi giải trí. Một nghịch lý đang tồn tại là, việc nội trợ, nuôi dạy con cái của phụ nữ thường bị coi là không có giá trị kinh tế. Thêm vào đó, phụ nữ còn là nạn nhân chủ yếu của sự phân biệt đối xử, phải gánh chịu những lạm dụng về thể xác, tinh thần từ phía người chồng, đặc biệt nạn bạo lực gia đình vẫn diễn biến hết sức nghiêm trọng, gây cản trở sự phát triển của phụ nữ nói riêng, gia đình nói chung theo hướng tiến bộ.
Vận dụng tư tưởng của Ph. Ăngghen trong xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay cần phải khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ hôn nhân; nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của gia đình; tăng cường vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em; quan tâm hơn nữa đến vấn đề bình đẳng giới, chăm sóc trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi... Hiện nay, gia đình ở Việt Nam đang có sự biến đổi toàn diện, sự biến đổi ấy là một quá trình biện chứng nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị của gia đình truyền thống, đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những giá trị của gia đình hiện đại. Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự phát triển của xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” (3) cho thế hệ trẻ. Có làm được điều đó thì gia đình mới trở thành cái nôi nuôi dưỡng sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người.
------------------------------------
(1) C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t21, tr. 44.
(2) Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý: Gia đình học, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009, tr. 264.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 77.
- Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực logistics tại Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị chính sách
- Định vị thương hiệu quốc gia Việt Nam qua ngoại giao văn hóa
- Những đóng góp của đồng chí Hoàng Quốc Việt với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
- Hợp tác và hội nhập quốc tế về quốc phòng của Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Gìn giữ, phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam