Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
TCCS - Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng nêu, mục tiêu trọng tâm, xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng xác định ba đột phá chiến lược: Hoàn thiện thể chế phát triển; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Ba đột phá tạo động lực nội sinh mới cho phát triển đất nước trong giai đoạn 2026 - 2030.
Hoàn thiện thể chế phát triển
Trong tiến trình đổi mới, Đảng ta luôn coi hoàn thiện thể chế phát triển là “đột phá của đột phá”, giữ vị trí trung tâm trong việc kiến tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng nêu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, thúc đẩy đột phá chiến lược, kiến tạo hệ sinh thái phát triển mới, bảo đảm quan điểm lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển và không ngừng nâng cao đời sống, hạnh phúc của Nhân dân; tập trung hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm, các thể chế khác là rất quan trọng”(1).
Chủ trương hoàn thiện thể chế phát triển có cơ sở khoa học vững chắc từ lý luận Mác - Lê-nin về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển trong điều kiện kinh tế số, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, thể chế kinh tế và chính trị phải được đổi mới phù hợp để giải phóng năng lực xã hội, thúc đẩy sáng tạo và bảo đảm công bằng. Hoàn thiện thể chế phát triển là tất yếu khách quan nhằm kiến tạo môi trường chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội đồng bộ, phát huy mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thể chế phát triển đóng vai trò bệ đỡ cho việc tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và hình thành các động lực tăng trưởng mới. Một thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ và minh bạch sẽ tạo hành lang pháp lý ổn định, nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo đảm công bằng xã hội. Mặt khác, thể chế quản lý linh hoạt, chú trọng phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm giải trình, giúp phát huy sức sáng tạo, tính chủ động của địa phương, doanh nghiệp và người dân trong phát triển.
Trong mô hình tăng trưởng mới, thể chế không chỉ là công cụ điều tiết mà còn là yếu tố cấu thành của năng lực cạnh tranh quốc gia. Một hệ thống thể chế hiện đại, minh bạch, vận hành hiệu quả sẽ bảo đảm tính ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô và niềm tin xã hội, nền tảng để Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển nhanh, bền vững và tự chủ hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số sâu rộng hiện nay.
Giai đoạn 2021 - 2025, thể chế của Việt Nam đã có bước hoàn thiện quan trọng, góp phần duy trì ổn định vĩ mô và củng cố niềm tin thị trường. “Đổi mới mạnh mẽ tư duy, cách làm trong xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật; tập trung điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện pháp luật theo hướng phân cấp, phân quyền triệt để, đơn giản hoá tối đa thủ tục hành chính để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn trong thực thi, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp”(2). Cải cách hành chính, phân cấp, phân quyền, cơ chế tự chủ của địa phương, của doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân được thúc đẩy. “Đổi mới mạnh mẽ tư duy, cách làm trong xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật; tập trung điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện pháp luật theo hướng phân cấp, phân quyền triệt để, đơn giản hoá tối đa thủ tục hành chính để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn trong thực thi, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp”(3). Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 đạt bình quân mỗi năm khoảng 6,3%, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao của khu vực và thế giới. Quy mô GDP năm 2025 ước đạt trên 510 tỷ USD, tăng 1,47 lần so với năm 2020; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD, đưa Việt Nam “gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao”. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 47%, cho thấy chuyển dịch theo hướng dựa nhiều hơn vào năng suất và đổi mới sáng tạo chứ không chỉ vào vốn và lao động giản đơn(4). Các cân đối lớn được bảo đảm: nợ công duy trì ở mức khoảng 35-37% GDP, thấp hơn đáng kể ngưỡng cảnh báo; bội chi ngân sách được kiểm soát; cán cân thương mại thặng dư; an ninh năng lượng, an ninh lương thực được giữ vững. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2024 đạt 191,9 nghìn tỷ đồng, vượt 17,4% so với dự toán, cho phép tăng chi đầu tư phát triển và bảo đảm các nhiệm vụ an sinh xã hội trọng yếu (5).
Tuy vậy, hiện nay thể chế vẫn còn thiếu tính đồng bộ, chưa thật sự thông thoáng để huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa hoàn thiện, khung pháp lý chưa đủ toàn diện để khơi thông nguồn lực trong nhân dân và thúc đẩy sản xuất. Tư duy xây dựng pháp luật vẫn thiên về quản lý hơn là kiến tạo phát triển, trong khi một số chính sách, quy định còn chồng chéo, thiếu thống nhất, chưa theo kịp thực tiễn. Phân cấp, phân quyền còn chưa rõ nét, thủ tục hành chính vẫn rườm rà, dịch vụ công trực tuyến cải thiện chậm. Hệ thống pháp luật về các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn còn chậm hoàn thiện, làm cho thị trường lao động, khoa học - công nghệ, chứng khoán, bất động sản gặp nhiều khó khăn, dẫn đến niềm tin của doanh nghiệp và nhà đầu tư suy giảm (6).
Trong giai đoạn tới, việc hoàn thiện thể chế được xác định là đột phá chiến lược hàng đầu, tạo nền tảng cho mô hình tăng trưởng mới dựa trên đổi mới sáng tạo khoa học - công nghệ, chuyển đổi số. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển, thúc đẩy ba đột phá chiến lược và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh, bền vững. Tập trung xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường đầu tư minh bạch, thuận lợi; phát triển các mô hình kinh tế mới, như kinh tế số, xanh, tuần hoàn. Đồng thời, gắn kết phát triển kinh tế với văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nhằm xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong giai đoạn mới. Theođó, tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, cần tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính hiện đại, minh bạch, hội nhập và hiệu quả. Trọng tâm là tạo lập khuôn khổ pháp lý ổn định, thuận lợi cho phát triển các mô hình kinh tế mới, như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; đồng thời, tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực, phòng ngừa xung đột lợi ích, bảo đảm công khai, trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ.
Hai là, đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền gắn với cơ chế giám sát, đánh giá độc lập. Các chính sách tài chính, tiền tệ, đầu tư công cần phối hợp nhịp nhàng, hướng tới ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, phát triển thị trường vốn, thị trường lao động và khoa học - công nghệ hiệu quả hơn.
Ba là, nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách, coi đây là khâu đột phá trong đột phá. Tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ có tư duy chiến lược, năng lực quản trị hiện đại, am hiểu kinh tế số và công nghệ mới; đẩy mạnh ứng dụng phân tích dữ liệu, trí tuệ nhân tạo trong quản lý, dự báo và điều hành chính sách.
Bốn là, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của địa phương, doanh nghiệp và người dân, khuyến khích cơ chế thử nghiệm chính sách, mở rộng không gian sáng tạo và hợp tác công tư trong phát triển hạ tầng số, năng lượng tái tạo, đô thị thông minh. Đây là hướng đi tất yếu để Việt Nam hình thành thể chế phát triển năng động, minh bạch, thích ứng và dẫn dắt tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên số.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế số
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là đột phá chiến lược quan trọng trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam, yếu tố quyết định để hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững và hội nhập sâu với thế giới. Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng khẳng định: “Tập trung chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài; khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao có cơ sở khoa học từ quan điểm của Mác - Lê-nin coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Trong nền kinh tế số, tri thức và sáng tạo trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất, nên đầu tư cho con người chính là đầu tư cho lực lượng sản xuất hiện đại. Trong bối cảnh chuyển đổi số, kinh tế tri thức và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang định hình lại mọi lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, nguồn nhân lực không chỉ là lực lượng lao động, mà còn là nguồn lực sáng tạo, tạo ra giá trị mới thông qua tri thức, công nghệ và dữ liệu.
Giai đoạn 2021 - 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam đạt khoảng 70%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt 29,2%(7), tăng hơn 5 điểm phần trăm so với năm 2020. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động số vẫn còn thấp, trong khi nhu cầu về nhân lực công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và năng lượng tái tạo ngày càng tăng nhanh. Sự thiếu hụt nhân lực trình độ cao đang trở thành điểm nghẽn đối với quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Để phát triển bứt phá trong giai đoạn 2026 - 2030, cần coi nguồn nhân lực chất lượng cao là trụ cột chiến lược, vừa là động lực, vừa là điều kiện của đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và kinh tế xanh. Đây không chỉ là vấn đề giáo dục, đào tạo, mà còn là chiến lược tổng thể về phát triển con người Việt Nam, hướng tới xây dựng nguồn nhân lực số, lực lượng lao động có kỹ năng số, tư duy đổi mới và năng lực hội nhập toàn cầu. Năng suất lao động xã hội tăng bình quân 4,8 - 5%/năm, đóng góp khoảng 47% vào tăng trưởng GDP, cho thấy vai trò ngày càng lớn của tri thức và kỹ năng trong mô hình tăng trưởng. Tuy nhiên, năm 2024, năng suất lao động theo PPP (năm 2021) của Việt Nam chỉ bằng 11,6% mức năng suất của Singapore, 27% của Hàn Quốc, 30,6% của Nhật Bản, 37,5% của Malaysia, 66,9% của Thái Lan, 56,8% của Trung Quốc, 87,2% của Indonesia và gấp 1,1 lần của Philippines(8).
Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi số và phát triển kinh tế xanh(9). Hệ thống giáo dục - đào tạo, đặc biệt là giáo dục nghề nghiệp, chưa theo kịp tốc độ phát triển của khoa học -công nghệ và nhu cầu nhân lực mới. Sự thiếu gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động, giữa nhà trường với doanh nghiệp làm giảm tính thích ứng và hiệu quả của nhân lực trong nền kinh tế số. Ngoài ra, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực với tốc độ chậm, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 33,1% năm 2020 xuống còn khoảng 25,8% năm 2025(10).
Bước vào giai đoạn phát triển mới, Đảng ta xác định phát triển con người và nguồn nhân lực chất lượng cao là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới sáng tạo và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng đã nhận thức sâu sắc hơn về nhân tố con người và mối quan hệ giữa phát triển văn hóa, con người với phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện được xác định là một mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; coi phát triển văn hóa và xây dựng con người là nhân tố nội sinh cốt lõi và động lực của sự phát triển bền vững. Để thực hiện định hướng đó, cần thực hiện đồng bộ một sốgiải pháp:
Một là, cần hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển nhân lực số và nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, năng lượng tái tạo và quản trị công nghệ. Chính sách tiền lương, đãi ngộ, môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến phải đủ sức hấp dẫn để thu hút chuyên gia giỏi, người Việt ở nước ngoài, đồng thời tạo động lực cho đội ngũ cán bộ trong nước cống hiến, đổi mới và sáng tạo.
Hai là, đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, gắn kết giữa học với hành, giữa nhà trường với doanh nghiệp và Nhà nước. Cần phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp và đào tạo lại cho lực lượng lao động, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong các ngành sản xuất, dịch vụ và quản lý công. Việc xây dựng mạng lưới đại học số, chương trình học trực tuyến chất lượng cao, và khung trình độ quốc gia theo chuẩn kỹ năng số là yêu cầu cấp thiết.
Ba là, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong phát triển nhân lực, nhất là công cụ phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong dự báo nhu cầu lao động và hoạch định chính sách đào tạo. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế về phát triển nhân lực, tiếp cận mô hình “chuyển giao tri thức” từ các quốc gia tiên tiến, gắn với tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực và thế giới.
Bốn là, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gắn với phát triển con người Việt Nam toàn diện, thúc đẩy tinh thần học tập suốt đời, hình thành xã hội học tập và nguồn nhân lực có năng lực số, tư duy toàn cầu, bản sắc văn hóa Việt Nam và ý thức công dân số.
Xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại
Chủ trương xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại có cơ sở khoa học từ lý luận Mác - Lê-nin về vai trò của cơ sở vật chất - kỹ thuật đối với sự phát triển của phương thức sản xuất. Hạ tầng kinh tế - xã hội chính là nền tảng vật chất của lực lượng sản xuất, quyết định năng suất lao động và khả năng tái sản xuất mở rộng. Trong thời đại số, kết cấu hạ tầng hiện đại không chỉ bao gồm giao thông, năng lượng, đô thị mà còn hạ tầng số, dữ liệu và tri thức. Đầu tư đồng bộ, hiện đại hóa hạ tầng là điều kiện tất yếu để thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết cấu hạ tầng hiện đại có vai trò tạo nền tảng vật chất - kỹ thuật cho tăng trưởng nhanh, bền vững, là điều kiện để phát huy hiệu quả của thể chế, nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ. Do đó, trong mô hình tăng trưởng mới, phát triển hạ tầng hiện đại không chỉ là điều kiện cần cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn là động lực trực tiếp cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và sức chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc toàn cầu.
Trong giai đoạn 2021 - 2025, phát triển kết cấu hạ tầng là đột phá chiến lược, đạt được nhiều kết quả nổi bật. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội đã có bước phát triển bứt phá, với hơn 3.000 km đường bộ cao tốc được hoàn thành và khởi công mới, cơ bản hoàn thành tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông; đồng thời khởi động xây dựng một số tuyến trục ngang, đường vành đai và chuẩn bị đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Các cảng biển quốc tế Lạch Huyện và Cái Mép - Thị Vải được nâng cấp, mở rộng; cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 đã được khởi công. Tổng công suất hệ thống điện quốc gia đạt gần 80.000 MW, trong đó năng lượng tái tạo chiếm 30%, thể hiện định hướng rõ ràng cho chuyển đổi xanh.
Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, còn yếu, thiếu và chưa theo kịp yêu cầu phát triển,việc khơi thông, huy động và phân bổ nguồn lực còn hạn chế. Một số vùng, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa, hạ tầng giao thông vẫn còn khó khăn; hệ thống đường sắt quốc gia lạc hậu, thiếu kết nối đa phương thức; nhiều cảng biển, kho logistics đầu tư còn manh mún, hiệu suất khai thác thấp. Hạ tầng đô thị tại các thành phố lớn chưa đáp ứng tốc độ đô thị hóa, dẫn đến ùn tắc, ô nhiễm, ngập úng kéo dài. Hạ tầng năng lượng tuy mở rộng nhưng chưa ổn định về quy hoạch điện, một số thời điểm còn xảy ra thiếu điện cục bộ. Hạ tầng số phát triển chậm, mạng 5G triển khai chưa đạt kỳ vọng, hạ tầng dữ liệu và trung tâm lưu trữ còn thiếu đồng bộ. Bên cạnh đó, quy hoạch không gian phát triển và liên kết vùng vẫn là khâu yếu, chưa phát huy lợi thế của từng vùng, miền. Hạ tầng xanh, hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai còn hạn chế, nhiều hồ chứa, đập, hệ thống đê điều chưa đáp ứng yêu cầu an toàn. Những hạn chế trên cho thấy, Việt Nam đang cần một chiến lược hạ tầng tích hợp, vừa thúc đẩy tăng trưởng, vừa thích ứng với biến đổi khí hậu và chuyển đổi số, bảo đảm sự gắn kết giữa phát triển hạ tầng vật chất với hạ tầng số, hạ tầng năng lượng và hạ tầng xã hội - hướng tới nền kinh tế xanh và bền vững.
Bước vào giai đoạn 2026 - 2030, Việt Nam xác định phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại là một trong ba đột phá chiến lược trọng tâm, vừa là điều kiện tiên quyết, vừa là động lực trực tiếp cho đổi mới mô hình tăng trưởng. Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ và đột phá mạnh mẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông đa phương thức, hạ tầng công nghệ phục vụ quản lý, quản trị và kiến tạo phát triển; hạ tầng phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu”. Để thực hiện chủ trương đó, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, xây dựng và triển khai chiến lược tổng thể về phát triển hạ tầng quốc gia giai đoạn 2026- 2035, bảo đảm tính tích hợp giữa hạ tầng kinh tế - xã hội, số và năng lượng. Trọng tâm là hoàn thành mạng lưới 5.000km đường cao tốc, triển khai tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các tuyến vành đai, trục liên vùng và hạ tầng logistics hiện đại nhằm giảm chi phí vận tải, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Hai là, đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng số và năng lượng xanh, lấy chuyển đổi số làm nền tảng cho quản lý, giám sát và điều phối hạ tầng. Tiếp tục mở rộng hạ tầng viễn thông 5G, xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia, hệ thống điện toán đám mây và hạ tầng dữ liệu mở. Đồng thời, phát triển hạ tầng năng lượng tái tạo, như điện gió, điện mặt trời, hydrogen xanh, gắn với lộ trình chuyển đổi năng lượng công bằng và mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Ba là, đổi mới cơ chế huy động vốn và phương thức đầu tư, khuyến khích hợp tác công - tư, huy động nguồn lực xã hội, đặc biệt là từ các quỹ đầu tư xanh, trái phiếu xanh và tài chính khí hậu. Nhà nước tập trung vào các dự án hạ tầng chiến lược, có sức lan tỏa, bảo đảm tính kết nối liên vùng, đồng thời tăng cường năng lực quản lý đầu tư công và giám sát chất lượng công trình.
Bốn là, bảo đảm quy hoạch hạ tầng đồng bộ với quy hoạch không gian phát triển và đô thị bền vững, tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ, dữ liệu lớn trong quy hoạch, xây dựng và vận hành hạ tầng. Việc phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, xanh và số hóa không chỉ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng tăng trưởng mà còn khẳng định năng lực thích ứng, sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam trong kỷ nguyên mới, nơi hạ tầng trở thành “xương sống” của phát triển bền vững và thịnh vượng quốc gia.
Ba đột phá chiến lược được xác định trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng thể hiện tư duy phát triển mới, toàn diện và hiện đại của Việt Nam trong kỷ nguyên chuyển đổi số và phát triển bền vững. Hoàn thiện thể chế phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại không chỉ là ba trụ cột chiến lược mà còn là ba động lực nội sinh chủ yếu bảo đảm tăng trưởng nhanh, ổn định và tự chủ. Việc triển khai hiệu quả các đột phá này sẽ tạo nền tảng để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, khẳng định vị thế mới của đất nước trong khu vực và trên trường quốc tế./.
-------------------------
(1), (2), (3) (4) Xem: Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng
(5), (6), (7), (8), (10) Xem: Phụ lục 4: Đánh giá 5 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030
(9) Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam
Đóng góp ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học vào Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng  (22/11/2025)
Bế mạc Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII  (06/11/2025)
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030: Mở ra chặng đường phát triển mới, khát vọng vươn lên cho quê hương “địa đầu cực Nam Tổ quốc”  (18/10/2025)
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030: Mở ra chặng đường phát triển mới, khát vọng vươn lên cho quê hương “địa đầu cực Nam Tổ quốc”  (18/10/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm