I- Khái quát chung

- Tên nước: Cộng hoà Hung-ga-ri.
- Thủ đô: Bu-đa-pét.
- Ngày Quốc khánh: 20-8, ngày Vua Istvan - người sáng lập Hung-ga-ri, lên ngôi.
- Vị trí địa lý: nằm giữa Trung Âu, có đường biên giới chung dài 2216,8 km với các nước U-crai-na, Ru-ma-ni, Xéc-bi-a, Xlô-ven-ni-a, Crô-a-ti-a, Áo và Xlô-va-ki-a; khí hậu ôn đới, chịu ảnh hưởng của khí hậu lục địa và Địa Trung Hải, nhiệt độ trung bình trong năm là 120C, tháng nóng nhất (tháng 7) là + 21,70C, tháng lạnh nhất (tháng 1) là – 1,20C.
- Diện tích: 93.030 km2, chiếm 1% diện tích Châu Âu.
- Dân số: 9.930.915 người (5-2008), trong đó 90% là người Hung-ga-ri, còn lại là người Crô-a-ti-a, Đức, Di-gan, Ru-ma-ni, Xéc-bi-a, Xlô-vác, Xlô-vê-ni-a.
- Tôn giáo: người theo đạo Thiên chúa La Mã chiếm 67,8%, Tin lành: 21%, Phúc âm: 6,2%, Do thái: 5,9%, Cơ đốc Hy lạp: 2,2%, Chính thống: 0,6%.
- Ngôn ngữ chính thức: tiếng Hung-ga-ri.
- Đơn vị tiền tệ: Pho-rinh (Ft), tỷ giá USD/Pho-rinh: 1 USD = 165 Ft (1-2008)
- Cơ cấu hành chính: 19 tỉnh và thủ đô Bu-đa-pét.

Thể chế chính trị
Thể chế Cộng hoà, đứng đầu là Tổng thống. Chế độ dân chủ đại nghị, đa đảng. Tổng thống do Quốc hội bầu, nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội một viện, gồm 386 ghế, hình thành từ danh sách bầu cử của các đảng lọt vào Quốc hội (đạt 5% số phiếu bầu trở lên) và các đại biểu thắng cử trực tiếp tại các khu vực bầu cử. Nhiệm kỳ Quốc hội là 4 năm. Thủ tướng do Tổng thống đề cử và Quốc hội bỏ phiếu bầu từ đảng hoặc liên minh giành được đa số trong Quốc hội. Các thành viên Chính phủ do Thủ tướng đề cử và Tổng thống ra quyết định bổ nhiệm.

Các lãnh đạo chủ chốt hiện nay
Tổng thống: Sôi-ôm La-xlô (Solyom Laszlo), từ tháng 8-2005.
Thủ tướng: Du-tran Phe-ren-xơ (Gyurcsany Ferenc), bầu tháng 5-2006.
Chủ tịch Quốc hội: Xi-li Co-to-lin (Szili Katalin), bầu tháng 5-2006.
Bộ trưởng Ngoại giao: Guên-xơ King-go (Goncz Kinga), bổ nhiệm tháng 5-2006.

II- Một số nét về lịch sử

Năm 896 người Hung-ga-ri bắt đầu đến định cư trên đất Hung-ga-ri ngày nay. Vào năm 1000 nhà nước phong kiến đầu tiên ra đời. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX là thời kỳ bị ngoại xâm thống trị (Thổ Nhĩ Kỳ đô hộ 150 năm, sau đó đế quốc Áo đô hộ gần 400 năm).

Tháng 3-1848 diễn ra cuộc cách mạng giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của Áo, nhưng bị thất bại. Tháng 11-1918 Đảng Cộng sản ra đời. Tháng 3-1919 thành lập Cộng hoà Xô-viết Hung-ga-ri, nhưng chỉ tồn tại 113 ngày.

Từ tháng 8-1948 tiến hành công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuối năm 1989, Hung-ga-ri thay đổi thể chế chính trị. Ngày 23-10-1989, Quốc hội Hung-ga-ri thông qua Hiến pháp mới và tuyên bố thành lập Cộng hoà Hung-ga-ri theo chế độ dân chủ đại nghị, nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường tự do. Trải qua 5 cuộc bầu cử Quốc hội đa đảng (3-1990, 5-1994, 5-1998, 4-2002, 4-2006), các chính phủ liên hiệp cánh hữu và cánh tả thay nhau cầm quyền ở Hung-ga-ri.

III- Kinh tế
                                  Các chỉ số kinh tế chính:

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Tăng trưởng GDP

3,3%

2,9%

4%

4,2%

4%

2,1%

Lạm phát

5,2%

5%

5,6%

2%

2%

7,7%

Thất nghiệp

5,8%

7,2%

7,4%

7,1%

IV- Đối ngoại
Từ sau khi chuyển đổi thể chế chính trị, các chính phủ đều nhất quán thực hiện 3 mục tiêu ưu tiên trong chính sách đối ngoại:

1- Nhanh chóng hội nhập các tổ chức châu Âu và Đại Tây Dương, trước hết là NATO và EU.
2- Củng cố quan hệ với các nước láng giềng, khu vực.
3- Bảo vệ lợi ích của cộng đồng Hung-ga-ri sống ở nước ngoài, trước hết là ở các nước láng giềng.

Tháng 3-1999, Hung-ga-ri được kết nạp vào NATO. Từ ngày 1-5-2004, Hung-ga-ri là thành viên EU.

V- Quan hệ Việt Nam - Hung-ga-ri

Việt Nam và Hung-ga-ri lập quan hệ ngoại giao ngày 3-2-1950.

Hung-ga-ri đã dành cho nhân dân Việt Nam sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, đào tạo cho Việt Nam gần 3.500 cán bộ khoa học, kỹ thuật các cấp và xoá nợ cho Việt Nam từ năm 1973 về trước.

Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (5-1992), Phó Thủ tướng Trần Đức Lương (8-1994), Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Văn Tửu (9-1995), Thủ tướng Võ Văn Kiệt (5-1997), Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu (12-1999), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (9-2003), Chủ tịch nước Trần Đức Lương (5-2004) thăm Hung-ga-ri.

Phó Chủ tịch Quốc hội Cô-rô-đi Ma-ri-a (4-1996), Bộ trưởng Ngoại giao Cô-vát La-xlô (4-1997), Tổng thống Guên-xơ A-rơ-pát (2-1998), Phó Chủ tịch Quốc hội Xi-li Co-to-lin (4-2000), Chủ tịch Quốc hội Xi-li Co-to-lin (3-2004), Thủ tướng Du-tran Phe-ren-xơ (7-2005), Đặc phái viên Thủ tướng, ông Medgyessy Péter (3-2007), Bộ trưởng Ngoại giao Guên-xơ King-go (3-2008) thăm Việt Nam.

Quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước tiếp tục phát triển; kim ngạch trao đổi hàng hoá hai chiều những năm gần đây như sau (xem bảng):

                                                                              (đơn vị: triệu USD)

2004

2005

2006

2007

Việt Nam nhập

16,40

18,47

25,20

28,86

Việt Nam xuất

21,64

27,03

31,80

62,71

Tổng kim ngạch

38,04

45,50

57,00

90,57

(Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam)

Trung bình ODA Hung-ga-ri dành cho Việt Nam khoảng 500.000 euro. Năm 2008, Hung-ga-ri đã tăng mức cam kết ODA dành cho Việt Nam lên 49,5 triệu USD.

Cho đến nay, hai bên đã ký: Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần; Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư; Hiệp định Tương trợ tư pháp; Hiệp định Hợp tác chống tội phạm có tổ chức; Tuyên bố chung về phát triển quan hệ và hợp tác giữa Việt Nam và Hung-ga-ri; Hiệp định Hợp tác kinh tế (thay cho Hiệp định Thương mại và Thanh toán ký năm 1992, hết hiệu lực ngày 1-5-2004 do Hung-ga-ri vào EU); Hiệp định Hợp tác nông nghiệp; Hiệp định Hợp tác phát triển; Hiệp định hợp tác khoa học - công nghệ; Thoả thuận hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Bộ Kinh tế - Giao thông Hung-ga-ri; Kế hoạch hợp tác giữa các ngành giáo dục - đào tạo, du lịch, văn hoá, phát thanh, hải quan…

Cộng đồng người Việt tại Hung-ga-ri hiện nay có khoảng 4000 người, sống tập trung chủ yếu tại Thủ đô Bu-đa-pét./.