Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 3/2011 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 3,6%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 17,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,8%. Tính chung quí I năm nay, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 5,5% (Trung ương quản lý tăng 5,8%; địa phương quản lý tăng 4,3%); khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 16,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,3%.

Trong ba ngành công nghiệp cấp I, giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến quý I tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước; ngành sản xuất, phân phối điện, nước tăng 9,2%; ngành công nghiệp khai thác tăng 1,9%.

Sản xuất của một số ngành công nghiệp quý I năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất đồ uống không cồn tăng 42,9%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 36,5%; sản xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) tăng 31,1%; sản xuất sắt, thép tăng 23,5%; sản xuất trang phục (trừ quần áo da lông thú) tăng 20,5%; sản xuất sợi và dệt vải tăng 20,1%; sản xuất đường tăng 19,9%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 19%; sản xuất giày, dép tăng 18,2%; sản xuất bia tăng 18%. Một số ngành công nghiệp có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất mô tô, xe máy tăng 9,7%; chế biến, bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản 9,4%; sản xuất, tập trung và phân phối điện tăng 9,1%; sản xuất xi măng tăng 9,1%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thuốc lá 6,9%; sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện tăng 5,9%; sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 3,6%; khai thác dầu thô và khí tự nhiên tăng 1,6%; khai thác, thu gom than cứng tăng 1%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 0,9%; chế biến và bảo quản rau quả giảm 7,4%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 13,7%.

Trong sản xuất công nghiệp quí I năm nay, nhiều sản phẩm chủ yếu đạt sản lượng tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó bình đun nước nóng tăng 81,9%; khí hoá lỏng tăng 38,8%; sữa bột tăng 19,5%; xe chở khách tăng 19,2%; đường kính tăng 18,2%; máy giặt tăng 17,7%; giầy thể thao tăng 17,5%; quần áo người lớn tăng 17,3%; vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 16,8%; thủy hải sản chế biến tăng 14,4%. Một số sản phẩm có sản lượng tăng khá là: Sơn hoá học tăng 12,3%; phân hoá học tăng 11,1%; xe máy tăng 9,8%; bia tăng 9,5%; xi măng tăng 9,4%; điện sản xuất tăng 9,3%; giấy bìa tăng 8,3%. Một số sản phẩm có sản lượng tăng thấp hoặc giảm là: Nước sạch tăng 7,6%; thuốc lá tăng 6,8%; thép tròn tăng 3,9%; lốp ô tô máy kéo tăng 3,8%; giày, dép, ủng bằng da giả tăng 3,8%; kính thủy tinh tăng 2,7%; dầu thô khai thác tăng 2,2%; dầu thực vật tinh luyện tăng 2,1%; khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 1,3%; vải dệt từ sợi bông tăng 0,2%; than đá khai thác tăng 0,1%; xà phòng giặt giảm 0,8%; gạch lát ceramic giảm 0,9%; gạch xây bằng đất nung giảm 1,6%; ti vi các loại giảm 7,7%; tủ lạnh, tủ đá giảm 16,9%; ô tô tải giảm 21,9%; điều hoà nhiệt độ giảm 55,3%.

Chỉ số tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hai tháng đầu năm 2011 tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 59,5%; đồ uống không cồn tăng 52,1%; đồ gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 36,1%; sắt, thép tăng 30,2%; xe có động cơ tăng 30,1%; các sản phẩm bơ, sữa tăng 28,9%. Một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng khá là: Xay xát, sản xuất bột thô tăng 16,3%; giày, dép tăng 14,4%; các sản phẩm khác từ plastic tăng 14,1%; phân bón và hợp chất nitơ tăng 12,9%; giấy nhăn và bao bì tăng 12,2%; sợi và dệt vải tăng 11,9%; thức ăn gia súc tăng 11,3%; chế biến, bảo quản thủy sản tăng 11%; xi măng tăng 11%. Một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng chậm hoặc giảm là: Bột giấy, giấy và bìa tăng 9,2%; mô tô, xe máy tăng 9%; bia tăng 4,4%; thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 1,7%; chế biến và bảo quản rau quả giảm 11,3%.

Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/3/2011 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp là: Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 11,2%; sản xuất sản phẩm bơ, sữa tăng 7,5%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 7,3%; sản xuất gạch ngói và gốm, sứ xây dựng không chịu lửa tăng 7,2%; sản xuất xe có động cơ tăng 4,7%; sản xuất sắt, thép tăng 2,5%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 0,9%; sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 0,1%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất mô tô, xe máy tăng 359,9%; sản xuất đồ uống không cồn tăng 246,5%; sản xuất bia tăng 85,1%; sản xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) tăng 84,1%; chế biến bảo quản thủy sản và sản phẩm từ thủy sản tăng 42,5%.

Sản xuất công nghiệp quí I mặc dù gặp một số khó khăn nhưng nhìn chung vẫn duy trì mức tăng khá nên số lao động trong ngành tương đối ổn định. Theo kết quả điều tra lao động của 4221 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, số lao động tháng Ba của của các doanh nghiệp trên tăng 1% so với tháng trước, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,1%, khu vực ngoài nhà nước tăng 1% và khu vực FDI tăng 1,6%. Trong ba ngành công nghiệp cấp I, lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,2%; ngành công nghiệp khai thác giảm 0,2%; ngành điện, nước biến động ít.

Cũng theo kết quả điều tra trên, biến động lao động công nghiệp tháng Ba so với tháng trước của một số tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Dương tăng 2,9%; Bắc Ninh tăng 5,3%; Vĩnh Phúc tăng 0,7%; Đồng Nai tăng 1,5%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 1%; Đà Nẵng tăng 0,5%; Hà Nội giảm 0,2%; Bình Dương tăng 1,9%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 1,9%; Hải Phòng tăng 1,1%./.