Nghệ An dân số đông, lực lượng lao động lớn, mỗi năm ước tính có khoảng 4 vạn người đến tuổi lao động. Đây là một lợi thế nhưng cũng là một áp lực gay gắt đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nghệ An chú trọng việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực và coi đó là giải pháp có tính đột phá để giải quyết việc làm cho người lao động trước yêu cầu hội nhập.

Thành quả từ việc đẩy mạnh đào tạo phát triển nguồn nhân lực

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI xác định mục tiêu: "Đoàn kết phấn đấu đưa Nghệ An thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển vào năm 2010; cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020...". Với các chỉ tiêu nâng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm từ 12% - 13%; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp lên 39%, dịch vụ 37%, giảm tỷ trọng nông nghiệp xuống còn 24%; mỗi năm tạo việc làm cho 30.000 - 35.000 lao động; GDP bình quân đầu người đạt 850 - 1000 USD...

Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đó, Ban Chấp hành Đảng bộ Nghệ An đã chọn hướng đi có tính đột phá, ra Nghị quyết chuyên đề: "Về phát triển nguồn nhân lực...", với 4 nội dung lớn, đó là: đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số; cán bộ nữ, cán bộ cơ sở; cán bộ trẻ có triển vọng; đề án đào tạo công nhân kỹ thuật; đề án bỗi dưỡng doanh nhân và kế hoạch thực hiện giai đoạn 2 (2006 - 2010); đề án nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Theo đó, hệ thống cơ sở giáo dục - đào tạo, nhất là giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề đã được chú trọng đầu tư xây dựng nâng cấp phát triển với tốc độ nhanh. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 2 trường đại học đào tạo đa ngành (Đại học Vinh và Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh); có 5 trường cao đẳng, trong đó có 2 trường cao đẳng nghề; 12 trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề; 42 trung tâm dạy nghề (tất cả các huyện, thành, thị đều có trung tâm dạy nghề và hướng nghiệp cho lao động). Cùng với sự phát triển về mạng lưới cơ sở đào tạo, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, thu hút nhân lực có trình độ cao, hỗ trợ học nghề cho người lao động.

Với hệ thống cơ sở đào tạo - dạy nghề được quy hoạch phát triển và các chính sách khuyến khích có hiệu quả, hằng năm toàn tỉnh đã đào tạo cho 4,5 - 5 vạn lao động, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo đến nay lên 35% trong tổng nguồn lao động, trong đó đào tạo nghề 21,25%. Cơ cấu ngành nghề đào tạo và chất lượng đào tạo được nâng lên từng bước đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, yêu cầu phát triển công nghệ và thị trường lao động.

Kết hợp việc phát triển nguồn nhân lực với chính sách khuyến khích thu hút đầu tư và phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đã có tác dụng tích cực thúc đẩy chương trình giải quyết việc làm cho lao động của tỉnh. Với hơn 4.300 doanh nghiệp nhỏ, vừa; 45 làng nghề; lồng ghép có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các dự án giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo; phát triển các Tổng đội Thanh niên xung phong làm kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu lao động... bình quân mỗi năm đã tạo thêm việc làm cho 3,0 - 3,2 vạn lao động, trong đó có từ 9.000 - 10.000 chỗ làm việc tập trung; 8.000 - 9.000 người đi xuất khẩu lao động. Tỷ lệ lao động thất nghiệp khu vực thành thị giảm từ 5,64% (năm 2001) xuống còn 3,72% (năm 2006); tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn tăng lên 80%; cơ cấu lao động được chuyển dịch đúng hướng với việc giảm tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp từ 77% (năm 2001) xuống còn 66,14% (năm 2006); cùng thời gian đó, lao động công nghiệp, xây dựng tăng từ 9% lên 15,96%, thương mại, dịch vụ từ 14% lên 17,9%...

Kết quả đạt được từ việc đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho lao động đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của tỉnh: tốc độ tăng trưởng GDP đạt trên 10%; sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp tăng 4,5% - 5%; công nghiệp - xây dựng tăng 18 - 19%; thương mại - dịch vụ tăng 11% - 12%; GDP bình quân đầu người đạt 7,35 triệu đồng/người/năm; hằng năm có từ 18.000 - 20.000 hộ thoát nghèo, đưa tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm từ 27,14% (năm 2005) xuống còn 20,65% (năm 2007); đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện; tình hình chính trị ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững...

Giải quyết việc làm đứng trước nhiều áp lực gay gắt

Tuy nhiên, Nghệ An là tỉnh có dân số đông (với hơn 3,1 triệu người), số lượng lao động bổ sung vào nguồn hằng năm lớn (mỗi năm có từ 3,5 - 4 vạn người đến tuổi lao động); chất lượng lao động thấp, lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng lớn, lao động có chuyên môn và tay nghề cao còn ít, năng suất thấp; thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, thợ bậc cao... Nhận thức về vai trò của dạy nghề, học nghề trong các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên tuy đã có chuyển biến, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, phiến diện; tư tưởng "thích làm thầy hơn làm thợ" vẫn còn nặng nề, dẫn đến việc thực hiện phân luồng trong giáo dục - đào tạo chưa có hiệu quả (mặc dù tỉnh đã có chính sách phân luồng từ nhiều năm nay).

Mặt khác, xuất phát điểm nền kinh tế của tỉnh thấp; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm; đặc điểm địa lý, địa hình phức tạp, nhất là khu vực miền núi phía Tây của tỉnh, ở xa các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước; cơ sở hạ tầng kém phát triển, không đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập, chưa có doanh nghiệp đầu tàu với những sản phẩm chủ lực, đa phần là doanh nghiệp nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, phát triển kém... Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế rất có thể làm cho một bộ phận không ít doanh nghiệp bị phá sản, số lao động bị thất nghiệp tăng lên. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bên cạnh yếu tố thuận lợi là thị trường lao động được mở rộng, người lao động sẽ có nhiều cơ hội việc làm hơn với chất lượng cao hơn, nhưng cũng đứng trước những thách thức lớn hơn về trình độ tay nghề, nghiệp vụ và cũng sẽ không ít người bị mất việc làm... Do vậy, giải quyết việc làm cho người lao động vẫn đang là áp lực gay gắt đối với quá trình cạnh tranh và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.

Xác định những giải pháp trọng yếu

Để phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra, trong những năm tới, Nghệ An tiếp tục xác định các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho lao động:

1 - Tiếp tục tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực. Phải nhận thức rõ nguồn nhân lực có chất lượng cao là yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh và sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội, từ đó tiếp tục quán triệt, chỉ đạo và quan tâm đầu tư đúng mức để tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nội dung đề án trong chương trình phát triển nguồn nhân lực. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức đoàn thể, hiệp hội, các doanh nghiệp, trường học, trung tâm dạy nghề tại các huyện, thành, thị để các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên nhận thức đầy đủ về yêu cầu nâng cao trình độ, tri thức và kỹ năng nghề nghiệp trong thời kỳ hội nhập. Quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Dạy nghề, các chính sách phân luồng và liên thông trong giáo dục, đào tạo.

2 - Bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch, phát triển hệ thống cơ sở giáo dục - đào tạo dạy nghề trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục nâng cao chất lượng, quy mô đào tạo các trường đại học, cao đẳng hiện có; đầu tư phát triển thêm các cơ sở đào tạo - dạy nghề công lập, kết hợp với việc đẩy mạnh xã hội hóa về giáo dục - đào tạo theo Nghị quyết 05/CP của Chính phủ và có chính sách thu hút các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư thành lập các cơ sở đào tạo - dạy nghề tư thục tại Nghệ An... để đến năm 2015 trên địa bàn tỉnh có trên 20 trường đại học, cao đẳng bảo đảm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho địa phương và khu vực, xây dựng thành phố Vinh trở thành trung tâm đào tạo của khu vực Bắc miền Trung theo tinh thần Quyết định 239/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục đầu tư đúng mức cho việc phát triển các trung tâm dạy nghề cấp huyện để bảo đảm dạy nghề cho lực lượng lao động lớn ở khu vực nông thôn, nhất là vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số bảo đảm nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội miền Tây Nghệ An theo tinh thần Quyết định 147/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

3 - Huy động mọi nguồn lực cho đầu tư và phát triển, thúc đẩy tăng nhanh hơn từ trong công nghiệp và dịch vụ cơ cấu lao động trên địa bàn. Trong đó, chú trọng việc khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế về tài nguyên, phát triển các chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh (sản xuất xi-măng; thủy điện, chăn nuôi đại gia súc; mía đường, đồ uống và sản phẩm hàng hóa xuất khẩu, kinh tế biển, du lịch - dịch vụ). Cùng với các biện pháp nỗ lực thu hút đầu tư các dự án khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp nhỏ và khu kinh tế Đông Nam, phải chú trọng việc đổi mới cơ chế, chính sách thúc đẩy sự phát triển của khu vực nông nghiệp - nông thôn; khôi phục và phát triển làng nghề, kinh tế trang trại; thực hiện có hiệu quả chính sách vay vốn tín dụng ưu đãi về giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo...

4 - Chú trọng việc phân công lao động ra ngoài địa bàn tỉnh, nhất là xuất khẩu lao động để tiếp tục làm giảm sức ép về nhu cầu việc làm cho lao động, góp phần tích cực vào việc thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo. Đây là lĩnh vực hoạt động đã và đang đem lại hiệu quả lớn cả về kinh tế và xã hội cho tỉnh. Xuất khẩu lao động vừa là hướng giải quyết việc làm, bảo đảm thu nhập, vừa tạo điều kiện cho việc tiếp cận công nghệ mới, rèn luyện kỹ năng lao động. Trong thời gian tới, cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của các ngành trung ương về tuyển lao động trên địa bàn, tỉnh tiếp tục quan tâm đầu tư cho Công ty cung ứng xuất khẩu lao động và Trung tâm giới thiệu việc làm của tỉnh để nâng cao năng lực khai thác thị trường, mở rộng hoạt động cung ứng, xuất khẩu lao động. Đồng thời chú trọng việc đào tạo nghề nâng cao chất lượng lao động, tạo điều kiện tiếp cận nhiều hơn các thị trường lao động ngoài nước có thu nhập cao và ổn định, phù hợp với chương trình đề án xuất khẩu lao động giai đoạn 2006 - 2010 của Chính phủ. Mỗi năm đưa được 9.000 - 10.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó có ít nhất 70% lao động đã qua đào tạo có trình độ chuyên môn và tay nghề.

5 - Triển khai thực hiện tốt Luật Dạy nghề và Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; tăng cường công tác quản lý Nhà nước về giáo dục, đào tạo và lao động việc làm. Trong đó coi trọng việc ban hành, bổ sung cơ chế, chính sách tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của hoạt động dạy và học nghề, phấn đấu đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo trên 50% vào năm 2010. Tổ chức thực hiện tốt chính sách cho vay ưu đãi đối với học sinh chuyên nghiệp và học nghề theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các chính sách hỗ trợ học nghề đối với người nghèo, lao động nông thôn, lao động thuộc diện thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, các đối tượng lao động đặc thù (người tàn tật, người sau cai nghiện ma túy...) và lao động xuất khẩu. Đồng thời với việc tăng cường các hoạt động thanh tra, giám sát, kiểm định về chất lượng đào tạo, thực hiện nghiêm túc các chương trình chống tiêu cực, chống bệnh thành tích trong giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.