TCCSĐT - Với truyền thống cách mạng, với bản lĩnh chính trị kiên định và sự sáng tạo đổi mới trong việc xác định đường lối phát triển đất nước, Đảng ta sẽ chèo lái con thuyền Việt Nam vượt qua khó khăn thách thức, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ khi mới thành lập (3-2-1930), Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Đảng ta khẳng định: Giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử và có khả năng đề ra đường lối cứu nước đúng đắn, thực hiện triệt để yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Đảng đã đề ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt Luận cương chính trị về cách mạng Việt Nam, thể hiện sự lựa chọn dứt khoát con đường cách mạng đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Việc đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo trào lưu tiến bộ nhất của loài người trong thế kỷ XX là sáng tạo lớn nhất của Đảng ta, làm nền tảng vững chắc cho những giai đoạn phát triển tiếp theo của dân tộc.

Nhìn lại chặng đường lịch sử của cách mạng, chúng ta đều thấy rõ, ở thời điểm Đảng ta mới ra đời, trình độ dân trí của nước ta rất thấp, đến 90% chưa biết chữ. Khi đó, giai cấp công nhân Việt Nam mới hình thành với số lượng chỉ khoảng 22 vạn người, chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân số. Thời kỳ này, các Đảng Cộng sản ở châu Âu và Quốc tế cộng sản chưa phải đã có sự thống nhất về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đặt trong bối cảnh đó mới thấy hết được sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử và có ý nghĩa thực tiễn cách mạng sâu sắc. Đồng thời, qua đó mới thấy rõ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và của Đảng ta trong việc xác định đường lối cách mạng Việt Nam, ngay từ đầu đã không rập khuôn máy móc, sao chép đường lối cách mạng của các Đảng Cộng sản hoặc của các phong trào dân tộc khác trên thế giới.

Chân lý luôn luôn cụ thể, cách mạng là sự sáng tạo và đổi mới. Nghiên cứu quá trình vận động và chuẩn bị cho việc thành lập Đảng ta, chúng ta thấy được nổi bật ở lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với việc sử dụng phương pháp cách mạng sáng tạo, phù hợp với tình hình đất nước, để đưa chủ nghĩa Mác - Lênin thấm đậm vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ kinh nghiệm hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú của mình, đi từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, tiến lên giác ngộ về chủ nghĩa Mác - Lênin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo được một đội ngũ trí thức của giai cấp công nhân làm công tác truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Cuối năm 1928 đầu 1929, với chủ trương “Vô sản hóa”, các hội viên trong tổ chức “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” và nhiều trí thức yêu nước đã đi vào các hầm mỏ, nhà máy, công trường, đến các vùng nông thôn, miền núi... để tuyên truyền lý luận cách mạng và vận động, tổ chức các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột và nô dịch của kẻ thù. Chính nhờ có phương pháp cách mạng phù hợp và cụ thể của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong công tác truyền bá lý luận Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, mà từ đó làm cho hai phong trào này chuyển biến mạnh mẽ về chất và gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, ngay những năm tháng Đảng ta mới ra đời, Đảng đã tỏ rõ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc quyết định con đường cách mạng Việt Nam với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thể hiện sâu sắc bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam; là mạch nguồn để Đảng ta luôn giữ vững vai trò và uy tín lãnh đạo đối với toàn xã hội, đưa cách mạng tiếp tục vượt qua nhiều chặng đường đầy khó khăn, thử thách.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh, là một sự kiện “long trời, lở đất” của dân tộc Việt Nam. Từ bước ngoặt lịch sử cách mạng này đã nâng tầm cao của một dân tộc “rũ bùn đứng dậy”, đĩnh đạc tuyên bố trước toàn thế giới về nền độc lập, tự chủ và chủ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Còn nhớ khi ấy, ở trong nước có một số quan điểm cho rằng, thắng lợi của cách mạng giải phóng các dân tộc ở thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Song, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẳng định dứt khoát tính độc lập, tự chủ, sự chủ động, tích cực, sáng tạo của cách mạng thuộc địa với khẩu hiệu nổi tiếng: “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”; đặt vai trò của cách mạng giải phóng các dân tộc ở thuộc địa có ý nghĩa quyết định ngang với cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Với sứ mệnh lịch sử trao cho, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những dự đoán chính xác xu hướng phát triển của tình hình trong nước và quốc tế, tập trung sức lãnh đạo xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; chủ động, tích cực xây dựng các căn cứ địa cách mạng, phát triển phong trào cách mạng sâu rộng trên khắp các vùng, miền cả nước. Trước tình hình cách mạng nước ta cùng lúc phải đương đầu với cả thực dân Pháp và phát-xít Nhật hung hãn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn bình tĩnh, thận trọng, bám sát và phân tích đánh giá đúng tình hình thực tiễn khách quan; đã có quyết định đúng đắn, sáng tạo trong xác định đường lối quân sự với phương pháp, hình thức đấu tranh thích hợp là đi từ khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương, tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước khi có tình thế và thời cơ cách mạng chín muồi.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời và nhạy cảm về chính trị; đồng thời, thể hiện nổi bật bản lĩnh chính trị, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xác định mục tiêu, hình thức và phương pháp đấu tranh, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc với việc chớp lấy thời cơ “ngàn năm có một”. Do vậy, dù khi đó Đảng ta chỉ có khoảng hơn 5000 đảng viên, nhưng Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành được chính quyền về tay nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam.

Những năm 1945-1946, cách mạng Việt Nam đứng trước một bước ngoặt nghiệt ngã “ngàn cân treo sợi tóc”. Thời kỳ này, chính quyền cách mạng còn rất non trẻ, ngân khố quốc gia gần như trống rỗng, nền kinh tế kiệt quệ, công nghiệp chưa có gì đáng kể, nạn đói thì xảy ra triền miên và khủng khiếp. Trong khi đó, quân đội của Tưởng, quân viễn chinh Pháp và quân Anh tràn ngập từ Bắc đến Nam; chúng câu kết chặt chẽ với bọn cơ hội, với các đảng phái phản động “Việt quốc”, “Việt cách”, hòng tiêu diệt Đảng ta và chính quyền cách mạng non trẻ. Trước những tình thế vô cùng hiểm nghèo của cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quyết đoán mau lẹ, chính xác, linh hoạt, không được phép phạm sai lầm, nhất là trên những vấn đề có tính nguyên tắc, để giữ vững và phát triển thành quả của cách mạng.

Sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị thể hiện trình độ trí tuệ của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem đến thành công với sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, từng bước đập tan âm mưu và thủ đoạn thâm độc của chúng, làm tan rã bọn tay sai phản động trong nước. Để tăng cường thực lực cách mạng, Đảng ta đã tổ chức Tổng tuyển cử, khẳng định quyền làm chủ của toàn dân; đồng thời phát động phong trào “Hũ gạo tiết kiệm”, “Tuần lễ vàng”... góp sức đưa dân tộc ta vượt qua thời điểm khó khăn tưởng như cách mạng đã ở bên bờ vực thẳm. Tháng 12 năm 1946, khi điều kiện hòa hoãn không còn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, chủ động phát động toàn dân kháng chiến đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Phải đặt trong hoàn cảnh đặc biệt của cách mạng nước ta khi ấy mới thấy hết được bản lĩnh chính trị, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, tinh thần sáng tạo, chủ động và trách nhiệm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vận mệnh của hàng chục triệu con người, của cả dân tộc Việt Nam trong bước ngoặt lịch sử cách mạng.

Sau năm 1954, đất nước tạm thời chia làm hai miền với việc thực hiện hai chiến lược cách mạng khác nhau: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền trong điều kiện trên thế giới chưa có tiền lệ. Hơn nữa, ở thời kỳ này, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội xuất hiện trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự tác động ảnh hưởng nhất định đến tình hình cách mạng nước ta. Chính từ thực tiễn thắng lợi huy hoàng của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975), đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đảng ta đã kiên định trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân, phân tích một cách khách quan, khoa học tình hình thế giới, trong nước để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng.

Sau này, khi đất nước ta đã hoàn toàn thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhìn lại lịch sử, chúng ta càng thấy rõ đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, thể hiện sự kết tinh ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kết tinh giá trị khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trên cơ sở đó đã đấu tranh đánh bại những quan điểm, tư tưởng hữu khuynh, ích kỷ, hẹp hòi, thụ động, cùng những hành động trái với tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng của giai cấp công nhân. Có thể thấy rõ, ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng miền Nam gặp phải những thử thách gay gắt và tổn thất nặng nề trước sự khủng bố dã man, tàn bạo của Mỹ - Diệm bằng đạo luật 10/59. Đứng trước tình hình đặc biệt khó khăn của cách mạng, Đảng ta đã kịp thời ra Nghị quyết Trung ương 15 (1-1959) để quyết định đường lối và phương pháp cách mạng ở miền Nam. Từ nghị quyết lịch sử đó của Đảng đã soi sáng cho cách mạng miền Nam con đường đấu tranh, tạo cơ sở vững chắc cho quân và dân ta đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ để giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn trong mùa Xuân năm 1975.

Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Cách mạng nước ta lại đứng trước những thách thức mới do tác động của tình hình quốc tế và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, những khiếm khuyết trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chậm được phát hiện và khắc phục sửa chữa triệt để. Vì thế, chúng ta phải nhìn lại thực tiễn lịch sử đó mới càng thấy rõ Đảng ta trong bước ngoặt lịch sử cách mạng đã luôn vững vàng bản lĩnh chính trị, tỏ rõ trình độ trí tuệ, có trách nhiệm cao cả trước dân tộc và nhân dân. Từ thực tiễn Việt Nam và rút kinh nghiệm công cuộc cải tổ, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô (cũ), Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước hình thành và hoàn thiện đường lối đổi mới đất nước với phương hướng, mục tiêu, bước đi và những biện pháp thích hợp. Đường lối đổi mới được Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986) thông qua, một lần nữa khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới.

Như vậy, bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta đã được thể hiện trong suốt lịch sử hơn 80 năm lãnh đạo và đấu tranh cách mạng của Đảng, đặc biệt trước mỗi bước ngoặt lịch sử của cách mạng. Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa giáo điều, cơ hội, xét lại cùng những quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động khác.

Hiện nay, toàn Đảng ta đang chuẩn bị tiến hành Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI. Trong những năm qua và thời gian tới, các thế lực thù địch cùng những phần tử cơ hội, xét lại tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, phá hoại Đại hội Đảng, bôi nhọ uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước…, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, đồng nghĩa với xóa bỏ mọi thành quả của cách mạng. Song, với truyền thống cách mạng của Đảng, Đảng ta nhất định sẽ chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những khó khăn, thách thức mới; giữ vững bản lĩnh chính trị, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc xác định đường lối phát triển đất nước, vì mục tiêu ‘Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.