TCCS - Sau 3 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nhiều cơ hội cũng như thách thức từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã xuất hiện và tồn tại đan xen nhau tác động mạnh mẽ lên nền kinh tế Việt Nam. Một tồn tại nổi lên và ngày càng rõ nét là tình trạng nhập siêu. Nhập siêu của Việt Nam ở vào thực trạng đáng báo động và cần tìm hướng giải quyết một cách nhanh chóng và bền vững. Một trong những giải pháp mang tính bền vững và hiệu quả nhiều mặt là đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.

1 - Tình hình nhập siêu của Việt Nam

Tình trạng nhập siêu ở mức cao của nước ta trong những năm gần đây là nguyên nhân chính dẫn đến cán cân vãng lai thâm hụt, ảnh hưởng lớn đến việc bảo đảm ổn định tỷ giá, gây khó khăn cho công tác điều hành kinh tế vĩ mô. Bảng 1 cho thấy, nhập siêu tăng từ hơn 5 tỉ USD (năm 2006) lên gần 17 tỉ USD (năm 2008), 12,8 tỉ USD năm 2009 và dự kiến khoảng 12 tỉ USD năm 2010. Tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu rất cao, trong 3 năm (2007 - 2009) và 6 tháng đầu năm 2010 đều trên 20%.

Như vậy, mặc dù xuất khẩu tăng nhanh nhưng không bù đắp được sự tăng của hàng nhập khẩu. Chúng ta cùng nghiên cứu hàng nhập khẩu:

Bảng 1: Thực trạng nhập siêu của Việt Nam từ 2006 đến nay

Năm

Xuất khẩu
(tỉ USD)
Nhập khẩu
(tỉ USD)
Nhập siêu
(tỉ USD)
Tỷ lệ nhập siêu/
xuất khẩu (%)

2006

39,8

44,89

5,09

12,8%

2007

48,56

62,68

14,12

29%

2008

63

79,9

16,9

27%

2009

57,1

69,9

12,8

22,5%

6 tháng đầu năm 2010

32,12

38,85

6,73

20,9%

9 tháng đầu năm 2010

51,5

60,08

8,58

16,7%

Nguồn: Tổng cục thống kê

Về cơ cấu hàng nhập khẩu gồm 3 nhóm chính:

- Nhóm hàng cần nhập khẩu (bao gồm nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị...) chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu hàng nhập khẩu (năm 2009 chiếm 83,8%) và tiếp tục có xu hướng tăng trong năm 2010 do nhu cầu phát triển sản xuất của doanh nghiệp phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

- Nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu (bao gồm một số mặt hàng, như các sản phẩm từ sắt thép, đá quý, kim loại quý và sản phẩm...) chiếm tỷ trọng không cao trong cơ cấu hàng nhập khẩu (năm 2009 chiếm 7,3%) và có xu hướng giảm xuống trong năm 2010.

- Nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu (bao gồm ô-tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ, linh kiện phụ tùng ô-tô, xe máy, điện thoại di động, các mặt hàng tiêu dùng khác...) chiếm tỷ trọng không cao trong cơ cấu hàng nhập khẩu nhưng cao hơn nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu (năm 2009 chiếm 8,9%). Đây là nhóm hàng góp phần nâng cao kim ngạch nhập siêu của Việt Nam và đang có xu hướng tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng (ô-tô, điện thoại di động...) tăng cao.

Về thị trường, mặt hàng nhập khẩu, nhập siêu

Thứ nhất, xét theo khu vực thị trường, Việt Nam có thâm hụt thương mại duy nhất với châu Á và thặng dư thương mại với tất cả các châu lục còn lại (năm 2009 nhập siêu từ châu Á là 29,1 tỉ USD, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ 9 nước và vùng lãnh thổ chủ yếu trong khu vực châu Á chiếm 72,7% kim ngạch nhập khẩu của cả nước). Trong đó, Việt Nam nhập siêu chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản (nhập siêu từ Trung Quốc là lớn nhất).

Thứ hai, mặt hàng nhập khẩu từ các thị trường nhập siêu của Việt Nam chủ yếu vẫn là các nhóm hàng nguyên vật liệu, xăng dầu, sắt thép các loại, máy vi tính, các nhóm hàng điện tử và các loại máy móc thiết bị phụ tùng khác... Cơ cấu nhập khẩu theo mặt hàng đối với nhóm thị trường nhập siêu trong vài năm gần đây hầu như không thay đổi.

Thứ ba, đối với Trung Quốc, nhập khẩu từ thị trường chiếm gần 25% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước (năm 2009, nhập siêu với Trung Quốc đạt 11,53 tỉ USD, chiếm 90% tổng trị giá nhập siêu của cả nước), cụ thể là: Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao hơn so với các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. Những năm gần đây, cơ cấu hàng hóa Việt Nam nhập khẩu từ thị trường này không thay đổi nhiều, chủ yếu vẫn là máy móc thiết bị và vật tư, nguyên liệu sản xuất như sắt thép, phân bón, hóa chất, vật tư nông nghiệp, nguyên phụ liệu dệt, may, da, điện thoại di động...

Hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc có công nghệ không cao, giá thấp nên về dài hạn, nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị từ Trung Quốc sẽ giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Thời gian tới, cùng với xu hướng xuất khẩu sản phẩm thô của Việt Nam sang Trung Quốc bị thu hẹp, nếu không tăng tỷ trọng hàng chế biến xuất khẩu sang Trung Quốc và giảm nhập khẩu những mặt hàng Việt Nam đã sản xuất được, thì tình trạng nhập siêu từ thị trường này còn tiếp tục gia tăng.

2 - Một số nguyên nhân dẫn đến nhập siêu

- Do cùng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu (nông sản, tiêu dùng, dệt may, giày da, điện tử) với các nước trong khu vực và sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam thấp nên mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nguyên, nhiên, phụ liệu và vật tư phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu sang các nước châu á chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng nhập khẩu từ các nước này. Ngoài ra, do lợi thế về vận tải, giá cả và tính phù hợp nên đa số nhóm hàng này được nhập khẩu chủ yếu từ các nước trong khu vực.

- Nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước luôn ở mức cao với các mặt hàng thiết yếu, như: xăng dầu, phân bón, máy móc thiết bị... trong khi các mặt hàng này ở trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu. Rất nhiều những mặt hàng này ngoài việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước còn là yếu tố đầu vào cho nhiều ngành sản xuất và cho xuất khẩu ra các thị trường khác.

- Nguồn nguyên liệu tại chỗ cho sản xuất hàng trong nước và xuất khẩu chưa được tận dụng triệt để, trong khi các chương trình sản xuất thay thế hàng nhập khẩu vẫn còn những bất cập, đầu tư theo phong trào mà chưa tính hết hiệu quả và ảnh hưởng xã hội. Công nghiệp phụ trợ của một số ngành sản xuất lớn chưa phát triển nên phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng... để phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu.

- Trong khuôn khổ các hiệp định thương mại với lộ trình cắt giảm thuế quan, nhiều mặt hàng, sản phẩm của các nước có thế mạnh trong khu vực có cơ hội tiêu thụ tại thị trường Việt Nam nhiều hơn (đặc biệt nhóm hàng công nghiệp của Trung Quốc).

- Chưa có nhiều tập đoàn đa quốc gia lớn thiết lập cơ sở sản xuất cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương tại Việt Nam, nên kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng của các tập đoàn này tại Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.- Nhiều dự án tại Việt Nam do Trung Quốc trúng thầu đã nhập khẩu một lượng lớn máy móc, thiết bị từ Trung Quốc vào Việt Nam.

3 - Một số giải pháp phát triển hoạt động XTTM góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu

Để hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, cần triển khai đồng bộ các giải pháp ngắn hạn liên quan đến chính sách thuế, các hàng rào kỹ thuật, kể cả biện pháp hành chính trong phạm vi cho phép, phát triển nhanh các mặt hàng có thể sản xuất trong nước mà ta có lợi thế để hạn chế được nhập khẩu gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế so sánh; đồng thời với đó, việc tăng cường hoạt động xuất khẩu góp phần hạn chế nhập siêu trong giai đoạn tới là hết sức quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.

Các biện pháp và chính sách thúc đẩy xuất khẩu đã được bàn rất nhiều trong các tài liệu, công trình nghiên cứu ở các cấp. Bài viết này trình bày một số ý kiến tập trung chủ yếu vào các giải pháp đẩy mạnh hoạt động XTTM (cơ bản là XTTM quốc tế) góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả xuất khẩu của Việt Nam.

Những năm qua, hoạt động XTTM quốc tế của nước ta đã hoạt động khá hiệu quả, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển chung. Nguyên nhân của sự yếu kém này thể hiện chủ yếu ở những mặt sau:

- Các cấp, bộ, ngành, doanh nghiệp, người dân nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển hệ thống XTTM quốc tế.

- Cơ chế chính sách, quản lý nhà nước đối với hoạt động XTTM nói chung chưa hiệu quả.

- Sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống XTTM quốc tế chưa chặt chẽ, đồng bộ, mạnh ai nấy làm.

- Nguồn lực (nhân lực và vật lực) tập trung cho xây dựng và phát triển hệ thống XTTM quốc tế còn thiếu.

- Năng lực hoạt động của các tổ chức trong hệ thống XTTM quốc tế từ trung ương tới địa phương và nước ngoài còn nhiều hạn chế.

- Kinh nghiệm, chiến lược dài hạn, kế hoạch và kinh phí đầu tư cho xây dựng và phát triển hệ thống XTTM quốc tế còn thiếu.

Thúc đẩy hoạt động XTTM quốc tế đòi hỏi phải tập trung thực hiện những giải pháp cơ bản sau:

Một là, xây dựng chiến lược XTTM và hoàn thiện chính sách XTTM áp dụng chung cho toàn hệ thống.

Hai là, xây dựng và phát triển hệ thống XTTM theo mô hình:

Ba là, hoàn thiện cơ cấu các cơ quan XTTM quốc tế cấp vĩ mô và vi mô, tiến tới xây dựng các tổ chức XTTM quốc tế tại các địa bàn quận, huyện, phường, xã hình thành hệ thống XTTM bao phủ rộng khắp.

Bốn là, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức trong hệ thống XTTM quốc tế từ trung ương tới địa phương và nước ngoài.

Năm là, đẩy mạnh hoạt động phối hợp, nâng cao tính liên kết giữa các tổ chức hoạt động XTTM quốc tế tạo thành một hệ thống phát triển vững chắc cả về bề rộng và chiều sâu:

- Củng cố các liên kết ở cấp thực hiện và truyền dẫn chính sách, phương hướng từ cấp trung ương đến từng địa phương và từng doanh nghiệp cụ thể.

- Tăng cường sự phối hợp và thiết lập cơ chế hợp tác, trao đổi thông tin giữa các tổ chức XTTM nòng cốt, với các cơ quan, bộ, ngành, giữa các tổ chức cùng mạng lưới vệ tinh... tạo sự thống nhất trong hệ thống.

- Nâng cao vai trò tiếng nói đại diện cho quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp, của các tổ chức hiệp hội, ngành nghề trong hoạt động XTTM đối với toàn hệ thống.

- Định hình cơ chế đối thoại thường xuyên giữa Chính phủ và doanh nghiệp trong hoạt động XTTM, cùng chia sẻ trách nhiệm và cùng tháo gỡ khó khăn.

Sáu là, thực hiện xã hội hóa công tác XTTM quốc tế, khuyến khích và tạo cơ chế, chính sách bình đẳng để các tổ chức XTTM quốc tế thuộc các thành phần kinh tế tham gia, phát huy tính chủ động trong hoạt động XTTM của các doanh nghiệp.

Trước mắt, cần tập trung vào những giải pháp sau:

- Sớm triển khai Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Tăng cường XTTM ở các thị trường truyền thống, mở rộng sang thị trường châu Phi.

- Nâng cao hiệu quả hệ thống XTTM qua việc chỉ đạo các thương vụ phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan liên quan hỗ trợ doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường xuất khẩu sang thị trường mới, giải quyết các tranh chấp, cảnh báo các rủi ro và hàng rào kỹ thuật ở thị trường sở tại, giúp doanh nghiệp yên tâm khi kinh doanh tại các thị trường này.

- Thực hiện giải pháp hỗ trợ hoạt động XTTM, như: đẩy mạnh triển khai các hiệp định khu vực mậu dịch tự do (FTA) đã ký kết và tận dụng lợi thế các FTA đem lại, tổ chức phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp nội dung các FTA mà Việt Nam đã tham gia ký kết để tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tận dụng lợi thế từ các FTA; đẩy mạnh các hoạt động đàm phán song phương, đa phương nhằm mở rộng thị trường thúc đẩy xuất khẩu; rà soát và đàm phán sâu hơn đối với các thỏa thuận ưu đãi thuế quan song phương giữa Việt Nam với các đối tác trong khu vực như Lào, Cam-pu-chia. - Nghiên cứu về các biện pháp XTTM thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Cam-pu-chia trong tình hình mới; nghiên cứu báo cáo Chính phủ về các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và giảm nhập siêu đối với thị trường Trung Quốc.

- Tăng cường tính liên kết của toàn hệ thống XTTM trong việc phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương tổ chức các hội nghị giao ban xuất khẩu với các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng để tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, hoạt động xuất khẩu, bàn biện pháp XTTM đẩy mạnh xuất khẩu cho từng ngành hàng, mặt hàng.

+ Hoạt động XTTM cần triển khai ngay từ bước đầu của hoạt động xuất khẩu, Bộ Công Thương phối hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng Đề án “Chương trình hỗ trợ xuất khẩu” nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn, lãi suất cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

Kể từ tháng 7-2010 đến nay, tỷ lệ trị giá nhập siêu/kim ngạch xuất khẩu hằng tháng luôn đạt mức dưới 20% (kế hoạch đề ra) góp phần đưa tỷ lệ này trong 9 tháng đầu năm giảm xuống mức 16,7%. Các con số nhập siêu trong 3 tháng gần đây đã cho thấy mức giảm tương đối nhanh của tình hình nhập siêu nước ta trong năm nay. Điều này khẳng định những biện pháp mạnh của Chính phủ và việc triển khai thực hiện các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu của các bộ, ngành đã mang lại kết quả khả quan, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của hoạt động XTTM. Thời gian tới, khi nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhập siêu ngày càng trở thành một thách thức to lớn. Để đạt tới mục tiêu cân bằng cán cân thương mại, cần thiết phải duy trì và phát triển một hệ thống các giải pháp mang tính bền vững và hiệu quả cao. Phát triển hoạt động XTTM một cách hiệu quả, qua đó thúc đẩy xuất khẩu là một trong các giải pháp đó./.