TCCSĐT - Đầu tư cho giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi nước tuỳ theo điều kiện và đặc điểm của mình có hình thức đầu tư khác nhau. Ở một số nước ngân sách quốc gia đầu tư trực tiếp cho giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, hỗ trợ trực tiếp cho các trường đại học, hay hỗ trợ trực tiếp cho người đi học.

Chính sách Tín dụng ưu đãi cho giáo dục đại học ở một số nước

Tại Anh, nước đứng hàng đầu trên thế giới cũng như ở châu Âu về giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, ngân sách nhà nước được đầu tư trực tiếp cho các trường đại học. Báo cáo độc lập về Tình hình tài chính sinh viên và tài trợ cho giáo dục đại học được công bố ngày 12-10-2010 đã cho thấy, về kinh phí hoạt động của các trường đại học ở Anh trong năm học 2008 – 2009, học phí do sinh viên trong và ngoài nước đóng chiếm 29%, tài trợ của các cơ quan nhà nước chiếm 29%, phần còn lại do ngân sách tài trợ nghiên cứu, đầu tư và quyên góp từ các tổ chức từ thiện. Theo tính toán, nếu chi phí cho một tấm bằng đại học là 7.000 bảng Anh thì 3.000 bảng là từ học phí, còn lại 4.000 bảng là từ các nguồn tài trợ. Riêng năm học 2010 – 2011, ngân sách nhà nước tài trợ cho giáo dục đại học giảm so với các năm trước đó, và chỉ còn 449 triệu bảng.

Về chính sách đối với sinh viên đại học, Chính phủ Anh cho phép họ được vay tiền đóng học phí, sau khi ra trường, nếu đi làm có thu nhập dưới 15.000 bảng/năm trở xuống thì chưa phải trả nợ (mức mới dự kiến được nâng lên là 21.000 bảng). Tính chung, sau 3 năm học đại học, một sinh viên có mức nợ là 30.000 bảng. Lãi suất được nhà nước trợ cấp hiện nay chỉ có 1,5%/năm và dự kiến sẽ tăng lên 2,2%/năm. Thời gian trả nợ hiện nay là 25 năm và dự kiến tăng lên 30 năm trước khi được nhà nước xoá nợ. Chính phủ quy định mức trần học phí hiện nay là 3.290 bảng /sinh viên/năm và dự kiến tăng lên 6.000 bảng, thậm chí mức cao nhất lên tới 9.000 bảng từ năm 2012. Nếu trường đại học thu trên 6.000 Bảng sẽ phải nộp thuế thu nhập của nhà trường cho Bộ Tài chính Anh. Số tiền này lại được Bộ Tài chính tài trợ cho trường đại học theo tỷ lệ nói trên.

Theo Chính phủ Anh, tấm bằng đại học giúp người được cấp bằng đóng góp nhiều hơn cho xã hội và có thu nhập cao hơn; đồng thời mang lại lợi ích quốc gia thông qua giúp tăng trưởng kinh tế cao hơn và cải thiện môi trường xã hội tốt hơn. Lô-gic của lập luận có vẻ đơn giản: nếu nhà nước và sinh viên - cùng có lợi thì cả hai bên sẽ cùng gánh chịu chi phí trong việc mưu cầu lợi ích đó. Hiện nay Anh có số lượng sinh viên Việt Nam đang học đại học đứng hàng thứ ba sau Mỹ, Ô-xtrây-li-a và ngang hàng hoặc cao hơn Pháp.

Tại Pháp, nước đứng thứ ba trên thế giới sau Mỹ và Anh về số lượng sinh viên nước ngoài đang theo học ở các trường đại học, Chính phủ Pháp cũng có mức tài trợ rất lớn cho giáo dục đại học. Mức học phí học đại học tại Pháp vào loại thấp nhất trong các nền kinh tế phát triển. Pháp là một trong ít nước có số lượng đông nhất sinh viên Việt Nam được nhận học bổng theo học đại học và sau đại học tại quốc gia này.

Tại một số quốc gia sinh viên đại học không phải chi trả học phí. Ngay cả sinh viên nước ngoài theo học đại học tại quốc gia này cũng được hưởng lợi từ chính sách ưu đãi đó. Chính phủ Xin-ga-po có chương trình cho sinh viên nước ngoài vay vốn học tập. Sau khi sinh viên tốt nghiệp ở lại Xin-ga-po làm việc trong một số năm để trả nợ số tiền vay. Nhiều sinh viên Việt Nam đã tham gia chương trình học bổng nói trên.

Nhìn chung, số đông các quốc gia trên thế giới có các chương trình khác nhau trợ giúp tài chính cho sinh viên học đại học và sau đại học. Hàn Quốc có tới 6 chương trình và Trung Quốc cũng có 2 chương trình về tín dụng cho sinh viên. Mục tiêu của việc thực hiện các chương trình cho vay vốn học tập có thể phân thành 5 nhóm:

Thứ nhất, tạo nguồn thu nhập cho các trường đại học do có thể tăng cao hơn học phí;

Thứ hai, tạo điều kiện mở rộng, phát triển hệ thống giáo dục đại học;

Thứ ba, tăng cơ hội cho người nghèo tiếp cận giáo dục đại học, góp phần giải quyết công bằng xã hội.

Thứ tư, đáp ứng được nguồn nhân lực trình độ đại học cho phát triển kinh - xã hội của quốc gia.

Thứ năm, góp phần giảm bớt gánh nặng tài chính cho sinh viên.

 

Thực hiện chính sách Tín dụng ưu đãi cho giáo dục đại học và dạy nghề ở nước ta

Tại Việt Nam, Chính phủ có lộ trình xã hội hoá việc đầu tư cho giáo dục đại học, giảm bao cấp cho lĩnh vực này. Nhà nước chỉ miễn học phí cho sinh viên các trường sư phạm và một số lĩnh vực đào tạo hẹp khác, hoặc đối tượng chính sách khác theo quy định cụ thể.

Mới đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có hướng dẫn về việc thực hiện miễn, giảm học phí đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học năm học 2010-2011. Theo đó, 4 nhóm đối tượng được miễn học phí gồm: Người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng theo Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29-6-2005 về ưu đãi người có công với cách mạng; Học sinh, sinh viên có cha mẹ thường trú tại các xã biên giới, vùng cao, hải đảo và các xã đặc biệt khó khăn, xã bãi ngang ven biển và các thôn, bản đặc biệt khó khăn; Học sinh, sinh viên mồ côi cả cha lẫn mẹ, không nơi nương tựa hoặc bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế; Học sinh, sinh viên tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo và hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng công bố các đối tượng được giảm học phí. Mức giảm 70% học phí được áp dụng cho nhóm đối tượng là học sinh, sinh viên các chuyên ngành nhã nhạc cung đình, chèo, tuồng, cải lương, múa, xiếc và một số chuyên ngành, nghề nặng nhọc, độc hại. Các đối tượng học sinh, sinh viên là con cán bộ, công nhân, viên chức mà cha hoặc mẹ bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp được hưởng trợ cấp thường xuyên; học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề được miễn giảm 50% học phí.Còn lại số đông sinh viên không được bao cấp học phí ở phần lớn chương trình đại học, cao đẳng. Tuy có sự thay đổi nói trên, song trong điều kiện cân đối ngân sách còn nhiều khó khăn và để hỗ trợ tài chính cho sinh viên, ngay trong cuôí thập niên 90 thế kỷ XX, Chính phủ đã có chính sách tín dụng về vấn đề này.

Chính sách tín dụng ưu đãi cho học tập được triển khai cách đây hơn 10 năm theo Quyết định số 51/1998/QĐ-TTg ngày 2-3-1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ tín dụng đào tạo. Sau 5 năm triển khai, đến hết năm 2002, Quỹ tín dụng đào tạo đã huy động được 165,5 tỉ đồng. Doanh số thu nợ từ đầu chương trình đến ngày 31-12-2002 đạt 15,7 tỉ đồng, trong đó có 7.739 sinh viên đã trả hết nợ, chiếm tỷ trọng 16% tổng số sinh viên được vay vốn. Tổng dư nợ của Quỹ tín dụng đào tạo đến hết năm 2002 là 73,24 tỉ đồng.

Để hoàn thiện hơn chính sách này từ đầu năm 2003 Ngân hàng Chính sách xã hội ( NHCSXH) Việt Nam được thành lập, chính sách cho vay vốn học tập đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn từ Ngân hàng Công thương Việt Nam được chuyển giao cho NHCSXH đảm nhận.

Sau hơn3 năm triển khai Chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27-9-2007 của Thủ tướng Chính phủ, đến cuối năm 2010 NHCSXH đã thực hiện cho vay trên 17.400 tỉ đồng. Trong chương trình tín dụng học kỳ I năm học 2010 – 2011 Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chỉ đạo Kho bạc Nhà nước cho NHCSXH vay 5.600 tỉ đồng để đáp ứng nhu cầu vay của học sinh, sinh viên. Tính đến đầu năm 2011 đã có trên 2 triệu học sinh, sinh viên của gần 1,8 triệu hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn vay trên 24.000 tỉ đồng theo Chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Ước tính có khoảng 28% – 30% tổng số học sinh, sinh viên trong toàn quốc được vay vốn tín dụng học tập. Với dư nợ hiện nay trên 24.000 tỉ đồng, lãi suất cho vay 6%/năm, tính bình quân lãi suất đầu vào nguồn vốn khoảng 10%/năm, chênh lệch 4%/năm, thì mỗi năm lãi suất chênh lệch mà ngân sách cấp bù lên tới khoảng 1.000 tỉ đồng. Đây cũng là hoạt động tín dụng có quy mô lớn đứng hàng thứ hai sau tín dụng đối với hộ nghèo trong số các chương trình cho vay đối tượng chính sách do NHCSXH Việt Nam thực hiện. Chương trình này cũng được đánh giá là thành công nhất về tín dụng học tập trên thế giới.

Để bảo đảm thực hiện tốt và không ngừng nâng cao hiệu quả chính sách tín dụng học tập của Nhà nước, trong 2 năm 2008 – 2009, NHCSXH đã đến kiểm tra tại 10.007 xã trong cả nước, với 82.473 sổ tiết kiệm tại dân cư, rà soát việc vay vốn của 420.000 hộ gia đình và 196 cơ sở đào tạo, với khoảng 335.000 sinh viên đang vay vốn từ chương trình. Các đoàn kiểm tra phát hiện có 3.043 hộ gia đình thuộc 357 xã được vay vốn sai đối tượng, chiếm 0,7% trong tổng số hộ gia đình vay vốn chính sách xã hội được kiểm tra. Tỷ lệ này cho thấy tính hiệu quả của chương trình.

Cũng theo hướng không ngừng hoàn thiện theo yêu cầu của thực tiễn, kể từ năm học 2010 – 2011, chính sách tín dụng học tập cũng được mở rộng thêm tới một số đối tượng, như: bộ đội phục viên và thanh niên nông thôn học nghề; học sinh, sinh viên thuộc hộ khó khăn đột xuất được xem xét cho vay thụ hưởng trong thời gian 12 tháng. Đồng thời do có nhiều hộ vay theo chương trình tín dụng học tập có nhu cầu trả lãi hằng tháng trong quá trình con em họ theo học để không bị dồn lãi sau này, nên từ năm học 2010 – 2011, NHCSXH thực hiện thu lãi đối với các hộ có nhu cầu trả theo hình thức đó.

Cùng với chính sách cho học sinh, sinh viên vay vốn học tập trong nước, cần sớm triển khai cho vay vốn đi du học ở nước ngoài. Mức vay có thể bằng 40% - 100% nhu cầu đóng học phí tại nước đi du học. Tất nhiên, việc cho vay gắn với trách nhiệm gia đình tại Việt Nam, đồng thời không nhất thiết người đi du học học sau khi tốt nghiệp phải về nước làm việc ngay mà có thể được phép làm việc ở nước ngoài khoảng 3 – 5 năm. Nhà nước có thể dành mỗi năm khoảng 500 – 800 chỉ tiêu được vay vốn đóng học phí và hỗ trợ chi phí đi học ở nước ngoài cho những học sinh đạt điểm cao trong các kỳ thi tuyển sinh đại học ở tất cả các khối đào tạo theo những quy định cụ thể. Phần hỗ trợ chi phí đó không phải trả lãi, có thể phải hoàn lại hoặc không phải hoàn lại phù hợp với các tiêu chí được đưa ra từ đầu. Phần hỗ trợ tài chính đó bao gồm cả chi phí học tập ngoại ngữ trong nước. Những người đó sau khi tốt nghiệp nếu về nước làm việc thì có thể được miễn một phần tiền hỗ trợ. Nếu ở lại nước ngoài làm việc thì phải trả nợ toàn bộ kể cả vốn tín dụng và phần hỗ trợ kinh phí nhà nước. Phần trả nợ cũng được tính cụ thể trả nợ dần hằng năm dựa trên thu nhập của họ. Sau khi tốt nghiệp đại học, nếu có nhu cầu học thạc sĩ hay tiến sĩ, thì Nhà nước hỗ trợ tiếp kinh phí cho họ để sau này trở về làm cán bộ giảng dạy tại các trường đại học, cơ quan nghiên cứu, cơ quan hoạch định chính sách của Chính phủ,... phù hợp với các tiêu chí được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đưa ra.

Kết hợp với chính sách tín dụng học tập, Nhà nước cần mở rộng diện cấp học bổng cho sinh viên, trước tiên đó là những học sinh đoạt giải tại các cuộc thi quốc tế, hoặc cho cả những học sinh tham dự các cuộc thi quốc tế; tiếp đến là học sinh đoạt các giải chính thức tại các kỳ thi quốc gia, đỗ thủ khoa và “ á khoa” trong một số trường được lựa chọn, hoặc đạt 26 – 30 điểm thi tuyển sinh đại học một số khối. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho các các đối tượng nói trên nếu có nhu cầu du học đại học ở nước ngoài vay vốn đi học và có chính sách vận động, khuyến khích các doanh nghiệp cấp học bổng cho sinh viên học đại học cả ở trong và ngoài nước.

Cùng với việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước, cần tăng cường đàm phán, tìm kiếm qua con đường ngoại giao nguồn học bổng của chính phủ và các tổ chức quốc tế, cấp cho sinh viên ưu tú của Việt Nam; đàm phán, tìm kiếm nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế, các tổ chức quốc tế khác, của chính phủ các nước,... tạo nguồn vốn cho NHCSXH thực hiện chính sách tín dụng học tập.

Công tác trên cần được hỗ trợ bằng việc tăng cường đào tạo tiếng Anh, trợ giúp sinh viên học tiếng Anh, nhất là sinh viên các gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đáp ứng yêu cầu của các nước tiếp nhận sinh viên đến học tập.

Về mức vay, hiện nay mức vay đối với sinh viên đã được nâng lên 900.000 đồng/người/tháng, tăng hơn so với mức vay bình quân 860.000 đồng của năm học 2009 – 2010 và tăng mạnh hơn so với mức được vay trước đây (300.000 đồng/tháng). Tuy nhiên, mức vay mới đó vẫn rất thấp so với chi phí thực tế, phổ biến của sinh viên, nhất là đối với sinh viên học tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Việc điều chỉnh mức cho vay cũng cần phù hợp với mức học phí được điều chỉnh theo nhóm ngành học. Đồng thời cũng nên mở rộng sang các đối tượng có thu nhập trung bình, có nhu cầu vay vốn học tập, miễn là số tiền đó được chia đều cho các kỳ đóng tiền và chuyển thẳng cho cơ sở đào tạo. Mức vay đối với các gia đình nghèo, gia đình cận nghèo, gia đình không thuộc diện trên nhưng có hoàn cảnh khó khăn hay có nhu cầu vay,... cũng cần có sự khác nhau. Số tiền giải ngân mỗi đợt cũng cần phù hợp với từng đối tượng.

Thực tế hiện nay, nhiều gia đình được xếp loại trung bình, nhưng khi có 1 hay 2 người con học đại học, cao đẳng và dạy nghề,... thì lại rơi vào hoàn cảnh hết sức khó khăn. Khó khăn về tài chính dễ buộc con em họ phải thôi học.

Theo số liệu của NHCSXH, từ năm 2008 đến tháng 6-2009, đối tượng gặp khó khăn đột xuất về tài chính chiếm 15% trong tổng số sinh viên được vay vốn ưu đãi học tập, tỷ lệ này hiện nay khoảng 20%. Song, thiết nghĩ nên mở rộng tỷ lệ này, đơn giản hơn nữa thủ tục cho vay đối với những gia đình có con em đi học gặp khó khăn về tài chính, kéo dài hơn thời gian cho vay tín dụng học tập (không chỉ quy định là 12 tháng mà cần tăng lên 24 tháng hay đến khi tốt nghiệp).

Chính sách này cũng cần mở rộng sang cho các trường đại học, cao đẳng,...vay vốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường, nhất là xây dựng ký túc xá cho sinh viên nếu các cơ sở đào tạo đó có nhu cầu. Kết hợp giữa vốn tín dụng của Nhà nước thông qua NHCSXH, với vốn đầu tư của ngân sách địa phương, nguồn kinh phí của nhà trường, của doanh nghiệp, vốn ODA hay vốn tín dụng quốc tế khác.

Hiện nay, 28 địa phương và 3 bộ, ngành đang đầu tư khoảng 5.400 tỉ đồng xây dựng ký túc xá cho sinh viên các cơ sở đào tạo. Bộ Xây dựng dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho chương trình này trong năm học mới lên tới gần 6.000 tỉ đồng. Nhưng sau khi chương trình đó được hoàn thành, ước tính chỉ đáp ứng được khoảng gần 30% nhu cầu. Như vậy, nhu cầu thuê ký túc xá của sinh viên rất lớn nên cần có chính sách tín dụng của Nhà nước cho lĩnh vực này.

Có thể khẳng định đây là một kênh đầu tư vốn ngân sách nhà nước có hiệu quả kinh tế – xã hội rộng lớn. Song, thông qua chính sách tín dụng này ngân sách nhà nước không bao cấp cho cả người vay lẫn NHCSXH. Bởi vì người vay vốn vẫn phải có trách nhiệm trả nợ cả gốc và lãi sau khi đã tốt nghiệp, đi làm việc có nguồn thu nhập, đồng thời để có nguồn vốn tiếp tục cho sinh viên khác vay. Tuy nhiên, chính sách này có ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn về trả nợ. Phù hợp với diễn biến của thực tế, chính sách tín dụng học tập và các giải pháp tài chính khác đi kèm cần được tiếp tục hoàn thiện, bổ sung để đạt được các mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài như đã đề cập.