Tiếp tục hoàn thiện quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng

Vũ Thanh Sơn TS, Trưởng Khoa Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
12:24, ngày 15-11-2011
TCCS - Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, sự thừa nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với việc thừa nhận sự tồn tại nhiều chủ thể kinh tế có nguồn gốc sở hữu khác nhau, tuân thủ các quy luật thị trường. Quan hệ phân phối trong việc phân chia nguồn lực, yếu tố sản xuất, của cải và thu nhập, cơ hội tiềm năng giữa nhiều chủ thể mang tính đa chiều và phụ thuộc lẫn nhau. Để bảo đảm công bằng xã hội cho những đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong quá trình phát triển, cùng với cơ chế phân phối theo thị trường, thì cơ chế phân phối phi thị trường cũng cần được hoàn thiện.

Phân phối trong nền kinh tế thị trường

Phân phối là phạm trù kinh tế chính trị cơ bản, phản ánh quan hệ xã hội trong việc phân chia các nguồn lực, của cải xã hội. Phân phối là một mặt cơ bản của quan hệ sản xuất (sở hữu - tổ chức quản lý - phân phối), đồng thời là một khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội (sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng).

Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ phân phối cần được xem xét dưới nhiều phương diện, gồm sự đa dạng của chủ thể phân phối, sự phong phú của khách thể phân phối và phương thức phân phối.

Trước hết, chủ thể phân phối nguồn lực và của cải xã hội ngày càng phong phú, khi tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ cùng cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường. Các chủ thể độc lập trong mọi khâu của quá trình tái sản xuất, tất yếu họ độc lập trong phân phối và tự chủ trong việc thụ hưởng thành quả của mình. Bên cạnh các chủ thể nhà nước, còn có nhiều chủ thể tư nhân hay ngoài nhà nước đóng vai trò tích cực trong việc phân phối nguồn lực và của cải xã hội trong nền kinh tế quốc nội và quốc tế.

Khách thể phân phối cũng trở nên phong phú hơn khi cơ chế thị trường cho phép mỗi chủ thể phát huy năng lực sáng tạo, tìm kiếm cơ hội sinh lời theo đúng các quy luật vốn có của nó, như quy luật giá trị, quy luật cung -  cầu, quy luật cạnh tranh, v.v.. Tất cả nguồn lực có khả năng sinh lời dưới dạng hiện hữu hay tiềm năng; vật thể và phi vật thể, cơ hội tiềm năng là đối tượng cần phải phân chia giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Sự đóng góp các nguồn lực (trí tuệ, vốn, tư liệu sản xuất, tài sản,...) vào sản xuất, kinh doanh sẽ được nhận những mức thu nhập tương xứng theo giá trị thị trường. Những người có trí tuệ, năng lực và kỹ năng cao hay đóng góp nhiều cho phát triển xã hội sẽ được thụ hưởng tương xứng thành tựu phát triển. Ngược lại, những người ít đóng góp hơn (vì nhiều lý do khác nhau) sẽ được hưởng thụ ít hơn. Cơ chế thị trường cho phép mỗi chủ thể phát huy năng lực, nguồn đóng góp để thụ hưởng cao hơn theo mức đóng góp phù hợp các quy luật thị trường. Mỗi thành viên xã hội cần phải năng động tận dụng cơ hội phát triển để tạo ra giá trị sử dụng nhất định cho bản thân và có thể cho nhu cầu xã hội.

Theo bản chất thị trường, cạnh tranh sẽ dẫn tới kết cục thắng - thua. Điều này dẫn tới tình trạng chênh lệch thu nhập và điều kiện tái sản xuất đối với các chủ thể kinh tế. Cạm bẫy nghèo đói và bất bình đẳng thu nhập/cơ hội phát triển là tình trạng hiện hữu trong nền kinh tế thị trường.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam hiện nay, sự thừa nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đồng nghĩa với việc thừa nhận sự tồn tại nhiều chủ thể kinh tế có nguồn gốc sở hữu khác nhau, tuân thủ các quy luật thị trường. Quan hệ phân phối trong việc phân chia nguồn lực, yếu tố sản xuất, của cải và thu nhập, cơ hội tiềm năng giữa nhiều chủ thể mang tính đa chiều và phụ thuộc lẫn nhau. Một tất yếu hiện hữu là sự chênh lệch thu nhập/cơ hội phát triển giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội trở nên rộng hơn trong quá trình phát triển. Bên cạnh đó, cơ chế phi thị trường cũng cần được hoàn thiện để bảo đảm công bằng xã hội ở mức có thể cho những đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong quá trình phát triển.

Đại hội XI của Đảng bàn về quan hệ phân phối

Hoàn thiện quan hệ phân phối hiện nay phải dựa trên mục tiêu xây dựng xã hội của Việt Nam trong tương lai. "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;..."(1).

Hơn nữa, việc điều chỉnh quan hệ phân phối hiện nay cần thỏa mãn những yêu cầu và nội dung của mô hình kinh tế mà Việt Nam đang xây dựng: "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó cơ chế thị trường được vận hành đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"(2).

Xuất phát từ mục tiêu chiến lược và mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN như vậy, hoàn thiện quan hệ phân phối phải tương thích với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với lực lượng sản xuất hiện đại. Phân phối bảo đảm sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể và nhóm lợi ích trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm tiền đề kinh tế - kỹ thuật cho quá trình tái sản xuất xã hội và tái sản xuất sức lao động. Khi đó, "Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển"(3).

Trong giai đoạn quá độ lên CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nhiều hình thức phân phối phù hợp nền kinh tế thị trường và yếu tố định hướng XHCN, "thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội"(4). Khi năng suất lao động xã hội còn thấp nên của cải chưa thể "tuôn trào như nước", lao động chưa trở thành nhu cầu "số một" mà vẫn là hoạt động mưu cầu kiếm sống thiết yếu của con người. Hiện nay, mỗi thành viên bình thường trong xã hội bắt buộc phải lao động và sự hưởng thụ của họ được phân phối theo sự đóng góp sức lao động về số lượng và chất lượng. Phân phối thông qua các quỹ an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là tất yếu trong điều kiện Việt Nam. Nó bảo đảm mức bình đẳng có thể cho những nhóm người dễ bị tổn thương và yếu thế trong xã hội. Bên cạnh đó, dưới tác động của các quy luật thị trường, sự đóng góp nguồn lực vào quá trình sản xuất, kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc tạo ra của cải xã hội thỏa mãn lợi ích cá nhân và xã hội. Do đó, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác như trí tuệ, tài sản, đất đai, tư liệu sản xuất, v.v.. cũng là một căn cứ quan trọng trong việc thực hiện phân phối hiện nay.

Trong nền kinh tế thị trường, việc phân phối cơ hội phát triển cần được nhìn nhận một cách thiết thực xuất phát từ sự linh hoạt, năng động của nhiều chủ thể kinh tế, sự đa dạng của quan hệ giao dịch/trao đổi. Biết vận dụng triệt để cơ hội phát triển là tiền đề khẳng định năng lực thành đạt của từng chủ thể tham gia thị trường. Khả năng biến "giấc mơ" thành hiện thực chỉ đến với những chủ thể kinh tế có năng lực, tri thức và tận dụng đúng các quy luật trên sân chơi thị trường. "Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh"(5). Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định: "Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội"(6).

Dưới tác động của cơ chế thị trường, quan hệ phân phối cần được nhận thức từ 2 góc độ: Thứ nhất, phân phối bảo đảm tiền đề kinh tế - kỹ thuật để khuyến khích làm giàu theo pháp luật đối với mọi chủ thể tham gia "sân chơi" thị trường. Những cá nhân, cộng đồng, tập thể, doanh nghiệp có đủ năng lực và nguồn lực hợp pháp được phép làm giàu hợp pháp để tối ưu hóa lợi ích cá nhân. Đó chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.

Thứ hai, phân phối bảo đảm sự công bằng có thể cho những nhóm người dễ bị tổn thương hay yếu thế trong xã hội dưới tác động của các quá trình phát triển. Đối với các đối tượng này, sự quan tâm của nhiều bên liên quan, nhất là của Nhà nước là vô cùng cần thiết. "Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị"(7).

Như vậy, việc nhận thức và hoàn thiện quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời gian tới nhằm "thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển"(8). Hoàn thiện quan hệ phân phối sẽ góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất trong mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong những thập niên tới.

Quán triệt quan điểm của Đảng trong hoạt động thực tiễn

Thứ nhất, xây dựng môi trường phân phối phù hợp tạo động lực phát triển.

Môi trường thực hiện quan hệ phân phối bị chi phối bởi các tác nhân chủ quan từ cơ quan quản trị và các tác nhân khách quan từ cơ chế thị trường. Đối với nhóm tác nhân thứ nhất, việc thể chế hóa các quan điểm của Đảng thành những luật lệ, quy định, quy tắc phân phối là tiền đề quyết định sự lành mạnh của môi trường phân phối.

Hệ thống pháp luật đầy đủ và thống nhất bảo đảm cơ sở cho tất cả các chủ thể kinh tế tự do sáng tạo và tạo thu nhập theo đúng năng lực của mình, được phân phối hợp pháp những thành quả chính đáng của mình. Họ có quyền hưởng những thu nhập chính đáng từ tài sản, tiền bạc và trí tuệ của mình, được quyền huy động các nguồn lực hay phát huy các cơ hội phát triển phục vụ lợi ích của mình.

Thứ hai, tận dụng những ưu thế cơ chế của  thị trường - khuyến khích làm giàu hợp pháp.

Nhóm tác nhân thứ hai liên quan tới môi trường thực hiện quan hệ phân phối là cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, phân phối cần tuân thủ những nguyên tắc, quy luật vốn có của thị trường như cạnh tranh, quy luật giá trị, tối ưu hóa lợi nhuận. Việc phân phối được thực hiện dựa theo năng lực và đóng góp thông qua tín hiệu thị trường. Mỗi chủ thể thông thái trong việc tận dụng cơ hội để tối ưu hóa lợi ích riêng, như khả năng phân tích và dự báo các thông tin thị trường, đưa ra các quyết định lựa chọn và đầu tư phù hợp, quản trị hiệu quả trong hoạt động, v.v.. Trên cơ sở đó, các chủ thể có thể "làm giàu hợp pháp", linh hoạt và sáng tạo làm những gì pháp luật không cấm.

Phân phối thu nhập bị chi phối tương tác của hệ thống thị trường, chẳng hạn thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường vốn, thị trường hàng hóa và dịch vụ, v.v.. Thông qua đó, các nguồn lực được phân bổ hiệu quả giữa các ngành, lĩnh vực khác nhau, thu nhập được phân phối gắn với hiệu quả của từng loại yếu tố sản xuất. Như vậy, việc phân phối thu nhập diễn ra công bằng theo tín hiệu thị trường hiệu quả, phù hợp với mức đóng góp của các nguồn lực “đầu vào” hay yếu tố sản xuất vào quá trình tạo ra của cải xã hội.

Vì vậy, việc xây dựng đồng bộ hệ thống các loại thị trường và hoàn thiện từng loại thị trường là yêu cầu thiết thực, góp phần hoàn thiện nền kinh tế thị trường nói chung và quan hệ phân phối phù hợp nói riêng trong giai đoạn phát triển tiếp theo ở Việt Nam.

Thứ ba, hoàn thiện cơ chế phi thị trường bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.

Sự can thiệp của Nhà nước vào quan hệ phân phối có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Trước hết, trong giai đoạn phát triển tới, Việt Nam cần củng cố hệ thống an sinh xã hội nhằm nâng cao phúc lợi và sự bảo vệ cho các cộng đồng dân cư, nhất là nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương; hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, đa dạng hóa các hình thức cứu trợ xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống dịch vụ công thiết yếu, như giáo dục, y tế, kết cấu hạ tầng, v.v.. cần được phát triển đầy đủ nhằm bảo đảm cho mọi thành viên trong xã hội được tiếp cận và thụ hưởng đầy đủ.

Đẩy mạnh hoạt động giảm nghèo bằng những cơ chế mới thích hợp và thu hút nhiều cá nhân, tổ chức nhà nước và phi chính phủ trong và ngoài nước tham gia. Điều cơ bản nhất đối với người nghèo, khó khăn là sự trợ giúp (tài chính và cơ chế) để họ nâng cao năng lực tự vươn lên, thích nghi với cơ chế thị trường và biết cách tồn tại độc lập.

Nhà nước cần hoàn thiện chế độ và chính sách tiền lương, tiền công phù hợp với sự linh hoạt của thị trường trong các đơn vị sử dụng lao động khác nhau. Một trong các yêu cầu căn bản về phương diện này là tiền công/tiền lương phải bảo đảm tính tất yếu của quá trình tái sản xuất, tức là đủ để mua tư liệu sinh hoạt nuôi sống các thành viên gia đình người lao động trong nền kinh tế thị trường.

Thứ tư, tạo sự bình đẳng về cơ hội cho mỗi cá nhân trong xã hội.

Cơ hội trong nền kinh tế thị trường là tiền đề quan trọng quyết định tới thu nhập, khả năng cống hiến và hưởng thụ của mỗi chủ thể xã hội (cá nhân, tập thể, tổ chức, cộng đồng) trong tương lai. Tạo sự bình đẳng về cơ hội có thể tạo ra mức độ bình đẳng nhất định trong phân phối đối với mỗi chủ thể xã hội tham gia quá trình phát triển nói chung.

Một yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình phát triển, các chủ thể tham gia không phân biệt chủng tộc, giới tính, giai cấp, nguồn gốc xuất thân đều có cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực và yếu tố quy định sự phát triển, tự chủ lựa chọn các lĩnh vực/kỹ năng hoạt động có ích. Tất yếu họ phải được nhận các kết quả tương xứng theo năng lực của bản thân và khả năng làm chủ quá trình phát triển. Khi đó, sự chênh lệch về thu nhập và suy đến cùng là mức độ hưởng thụ của mỗi chủ thể hoàn toàn phụ thuộc vào sự nỗ lực cá nhân, tức là ai đủ năng lực hiện thực hóa cơ hội (chẳng hạn, biết nắm bắt cơ hội sản xuất, kinh doanh, sáng tạo ra ý tưởng kinh doanh độc đáo, nhạy bén xử lý thông tin...) người đó phải được hưởng thụ cao hơn. Như vậy, quá trình phát triển là quá trình hoàn thiện bản thân chủ thể và cạnh tranh liên tục vì cơ hội tốt hơn. "Coi trọng việc phân phối các cơ hội (và năng lực hiện thực hóa các cơ hội) công bằng, coi đây là hướng quan trọng nhất, xét về dài hạn, để tạo ra một sự phân phối các kết quả đầu ra hay thu nhập một cách công bằng"(9).

Thực hiện công bằng về cơ hội đạt được khi có đầy đủ các hệ thống pháp lý, quy tắc, quy định và những tiền đề vật chất - kỹ thuật thuận lợi cho phép các chủ thể biến cơ hội thành hiện thực.

Cơ sở pháp lý bảo đảm cho các chủ thể quyền lợi và nghĩa vụ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mọi chủ thể tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, các nguồn lực công, cơ hội sản xuất, kinh doanh và thành tựu phát triển. Sự tiếp cận bình đẳng đồng nghĩa với việc tạo cơ hội ngang nhau cho tất cả các chủ thể tận dụng nguồn lực xã hội và tư nhân, tạo thu nhập cho bản thân theo cách riêng trên thị trường. Điều này đòi hỏi từng chủ thể phát huy tính sáng tạo và độc lập trong việc tối ưu hóa lợi ích của mình trên cơ sở tận dụng cơ hội chung trong nền kinh tế thị trường.

Những tiền đề vật chất - kỹ thuật thuận lợi cho phép các chủ thể biến cơ hội thành hiện thực là điều kiện đủ trong việc tạo lập sự bình đẳng về cơ hội. Chẳng hạn, khả năng tiếp cận giáo dục ở vùng núi cao sẽ khó khăn hơn vùng đồng bằng, đô thị. Hiển nhiên, những người ở vùng khó khăn sẽ bất lợi hơn nâng cao trình độ, năng lực hiện thực hóa các cơ hội phát triển. Xuất phát từ đó, việc tạo sự bình đẳng về cơ hội cần có những giải pháp tổng hợp và sự can thiệp vĩ mô của Nhà nước.

Thứ năm, nâng cao hiệu lực các công cụ, chính sách trong điều tiết phân phối và phân phối lại.

Những công cụ, chính sách đắc lực điều tiết quan hệ phân phối và phân phối lại là thuế, tài chính - tiền tệ, thu nhập - việc làm, sở hữu đất đai, tài sản, thừa kế,v.v..

Sự can thiệp này cần được thực thi bằng những hệ thống công cụ đồng bộ và hiệu lực cao bảo đảm quan hệ phân phối và phân phối lại diễn ra một cách minh bạch, lành mạnh, tạo động lực cho quá trình phát triển như đã phân tích ở các mục trên.

Các chính sách định hướng phân phối lại thu nhập, của cải hay tài sản cần được cân nhắc từ nhiều góc độ: một mặt, chúng tạo môi trường minh bạch và điều kiện công bằng cho các chủ thể xã hội; mặt khác, chúng có khả năng ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, quy tắc phân phối dẫn tới tình trạng bất bình đẳng trong xã hội tương lai.

Thứ sáu, xử lý cương quyết và nghiêm minh các hành vi phân phối bất hợp pháp.

Công bằng trong phân phối đòi hỏi sự quản trị hiệu lực cao của nhà nước pháp quyền. Phân phối bảo đảm cho sự làm giàu chính đáng cần được thể chế hóa bằng các công cụ quản trị công, đồng thời những hành vi phân phối bất hợp pháp bất luận đối tượng vi phạm đó là ai, phải bị trừng trị nghiêm và công khai theo pháp luật. Chính điều này mới tạo ra sự bình đẳng cho mọi chủ thể thực hiện phân phối lành mạnh, phù hợp với những đóng góp tương xứng theo năng lực.

Những hành vi phạm pháp tìm mọi cách, mọi giá, mọi thủ đoạn để mưu cầu lợi ích riêng, vi phạm lợi ích chung là không thể chấp nhận trong xã hội và phải bị nghiêm trị công khai theo luật pháp. Cộng đồng xã hội không thể chấp nhận những vụ xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật không nghiêm minh, qua loa và hình thức. Rõ ràng, điều cần thiết để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với quan hệ phân phối là nâng cao hiệu lực của bộ máy quản trị công. "Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương"(10)./.

-----------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70

(2), (3), (4), (5), (6)  Văn kiện đã dẫn, các tr. 34 - 35, 74, 205, 124

(7), (8) Văn kiện đã dẫn, tr. 125, 227

(9) Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp nhà nước KX04.20/06-10. Vấn đề phân phối và thu nhập trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

(10) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 78