Khái quát chung
- Tên nước: Cộng hoà Ca-dắc-xtan (Republic of Kazakhstan).
- Thủ đô: Ác-xtan-na (Astana) là thủ đô của Ca-dắc-xtan từ tháng 7-1998. Thủ đô cũ là An-ma-ta.
- Ngày tuyên bố độc lập: 16-12-1991.
- Quốc khánh (ngày Cộng hoà): 25-10-1990.
- Vị trí địa lý: thuộc khu vực Trung Á.
- Địa hình: chạy dài từ sông Vôn-ga đến dãy núi An-tai, từ đồng cỏ phía Tây Xi-bê-ri cho đến sa mạc Trung Á.
- Diện tích: 2.717.300 km2. Đường biên giới dài 12.030 km (giáp Trung Quốc 1.533 km; Cư-rơ-gư-dơ-xtan 1.051 km; Nga 6.846 km; Tuốc-mê-ni-xtan 379 km, U-dơ-bê-ki-xtan 2.203 km).
- Khí hậu: lục địa, mùa hè nóng, mùa đông lạnh, khô.
- Tài nguyên thiên nhiên: có trữ lượng dầu mỏ đứng hàng thứ tám trên thế giới, riêng ở vùng biển Ca-xpi của Ca-dắc xtan, có trữ lượng 8 tỉ tấn dầu, đứng thứ ba về trữ lượng Crôm, thứ hai thế giới về trữ lượng Uran, thứ tư về trữ lượng quặng thiếc, thứ 8 về trữ lượng vàng và than.
- Dân số: 15.484. 800 người (số liệu tháng 1-7-2007), trong đó: người Ca-dắc chiếm: 53,4%, người Nga: 30%, người U-crai-na: 3,7%, người U-dơ-bếch: 2,5%, người Đức: 2,4%, người Tây Tạng Trung Quốc: 1,4%, người có quốc tịch khác: 6,6%.
- Tôn giáo: Hồi giáo chiếm 47%, Chính thống Nga chiếm 44%, Tin lành chiếm: 2%, đạo khác chiếm 7%.
- Ngôn ngữ chính thức: tiếng Ca-dắc (ngôn ngữ Nhà nước). Tiếng Nga là ngôn ngữ chính thức được sử dụng trong thương mại và được coi là ngôn ngữ giao tiếp của các dân tộc.
- Đơn vị tiền tệ: đồng Ten-gơ. Tỷ giá 1USD = 150,98 Tenge (tỷ giá 06-02-2009).
- Cơ cấu hành chính: 14 tỉnh và 02 thành phố.

Thể chế chính trị
Hiến pháp đầu tiên sau độc lập được thông qua ngày 28-1-1993. Ngày 30-8-1995, Ca-dắc-xtan tiến hành trưng cầu dân ý sửa đổi và bổ sung Hiến pháp.
Chế độ Cộng hoà Nghị viện - Tổng thống (từ năm 2007, sau khi sửa đổi Hiến pháp). Tổng thống Nu-xun-tan Na-da-bai-ép được bầu ngày 1-12-1991. Ngày 4-12-2005 Tổng thống Na-da-bai-ép đã được bầu lại làm Tổng thống nhiệm kỳ 7 năm.
Thành viên Hội đồng Bộ trưởng do Tổng thống bổ nhiệm. Quốc hội phê chuẩn.

Chế độ bầu cử: Trực tiếp, phổ thông đầu phiếu từ 18 tuổi trở lên.

Cơ quan lập pháp
Thượng viện gồm 39 ghế, trong đó 7 ghế do Tổng thống chỉ định, 32 Thượng nghị sĩ khác được bầu bằng phổ thông đầu phiếu từ 14 tỉnh, thủ đô Ác-xtan-na và thành phố An-ma-ta. Mỗi tỉnh, thành bầu 2 người. Bầu cử Thượng viện lần mới đây nhất vào tháng 12-2005. Nhiệm kỳ của Thượng viện là 6 năm.

Quốc Hội (Hạ viện) Ca-dắc-xtan đã tiến hành bầu cử (vòng I) ngày 19 tháng 9 -2004 và (vòng II) ngày 3 tháng 10-2004. Gồm 77 ghế và 10 ghế từ các đảng thắng cử. Nhiệm kỳ Hạ viện là 5 năm. Số ghế của các đảng trong Hạ viện như sau: Đảng Otan (Tổ quốc) được 23 ghế (đảng của Tổng thống ); Đảng Civic (công dân) được 13 ghế; Đảng Cộng sản được 3 ghế; Đảng Nông dân được 3 ghế; Đảng Nhân dân tập thể được 1 ghế; Không Đảng phái được 34 ghế.

Ngày 17-5-2007, Quốc hội Ca-dắc-xtan đã thông qua sửa đổi Hiến pháp. Theo đó, Hạ viện sẽ tăng thêm 30 ghế (trước đây là 77 ghế). Hạ viện sẽ được bầu theo danh sách các đảng phái chính trị. Trước đây Tổng thống chỉ định 7/39 Thượng nghị sĩ. Theo Hiến pháp mới (tăng thêm 8 ghế trong Thượng viện), Tổng thống chỉ định 15/47 Thượng nghị sỹ. Nhiệm kỳ của Tổng thống sẽ giảm xuống còn 5 năm (trước đây là 7 năm) và sẽ được áp dụng từ lần bầu cử Tổng thống vào năm 2012.

Lãnh đạo hiện nay
Tổng thống: Nu-xun-tan Na-da-bai-ép (từ ngày 11- 1-2006).
Thủ tướng: Ca-rim Ma-xi-mốp (bổ nhiệm ngày 1-1-2007).
Bộ trưởng Ngoại giao: Ma-rát Ta-din (bổ nhiệm ngày 11-1-2007).
Chủ tịch Thượng viện (Senat) Tô-ca-ép Ca-xưm Giô-ma-tơ Kê-mê-lu-lư. (Tokaev Kasym Jomart Kemeluly).
Chủ tịch Hạ viện (Majilis): Ô-ran Mu-ha-mét-gia-nốp (Oral Muhanedjanov) (được bầu 13-10-2008).

Cơ quan tư pháp
Toà án tối cao gồm 44 thành viên.
Hội đồng Hiến pháp gồm 7 thành viên.

- Các Đảng phái chính tại Ca-dắc-xtan:
Đảng thân chính quyền: Đảng Liên minh ruộng đất và công nghiệp (AIST); Đảng ruộng đất; Đảng Akzon “Con đường tươi sáng”; Đảng ASAR (của con gái Tổng thống Na-da-bai-ép); Đảng “Ngôi làng”; Đảng Công dân; Đảng Cộng sản Ca-dắc-xtan (KPK); Đảng dân chủ; Đảng “Ô-tan” (“Tổ quốc”) - đảng của Tổng thống); Đảng của những người yêu nước.

- Các đảng đối lập tại Ca-dắc-xtan:
Adil-Soz, A-lát, Phong trào A-da-mát “Citizen”, Đảng “Sự lựa chọn dân chủ của Ca-dắc-xtan”; Đảng Lao động và Phong trào công nhân.

Một số nét về lịch sử
Những người Ca-dắc lần đầu tiên được biết đến trong lịch sử vào cuối thế kỷ XV, khi họ thành lập Nhà nước du mục ở phía Tây và vùng trung tâm của Ca-dắc-xtan ngày nay. Trong thời kỳ giữa các năm 1488 và 1518, các Hãn người Ca-dắc kiểm soát hầu như toàn bộ các thảo nguyên Trung Á. Trước năm 1600, các quan lại của Ca-dắc-xtan luôn bị những người Ô-ri-át ở Tân Cương, Trung Quốc tập kích. Sang thế kỷ XVIII, đế quốc Nga bắt đầu xâm lược các thảo nguyên Ca-dắc-xtan.

Các cuộc khởi nghĩa của người Ca-dắc (1792-1794) chống lại ách cai trị của đế quốc Nga đã bị đàn áp và các Hãn Ca-dắc đã bị thủ tiêu hoàn toàn vào các năm 1822-1848. Dưới thời Nga Hoàng đã có những cuộc di cư lớn của nông dân Nga đến các thảo nguyên của Ca-dắc.

Sau Cách mạng tháng 10 Nga, người Ca-dắc theo đường lối dân tộc chủ nghĩađã thành lập một chính phủ khu vực và đòi quyền tự trị. Năm 1920, Hồng quân Liên Xô tiến vào Ca-dắc thành lập nước cộng hoà tự trị Ca-dắc-xtan, nhưng phải đến năm 1936, Ca-dắc-xtan mới trở thành thành viên chính thức của Liên Xô. Trong những năm 1954-1956 đã có những đợt di cư ồ ạt từ các vùng khác nhau của Liên Xô sang những vùng đất nguyên sơ của Ca-dắc-xtan để khai hoang. Trước năm 1991, người Ca-dắc chỉ chiếm thiểu số tại nước cộng hoà này. Sau khi Liên Xô tan rã, Ca-dắc-xtan được quốc tế công nhận là một quốc gia độc lập.

Kinh tế - xã hội
Giai đoạn 1991-1992, Ca-dắc-xtan bắt đầu chuyển nhanh sang kinh tế thị trường. Cải cách kinh tế tiếp tục phát triển và có hiệu quả.

Từ năm 2000 kinh tế Ca-dắc-xtan bắt đầu đạt tốc độ tăng trưởng cao. GDP năm 2007 tăng 8,5%, sản xuất công nghiệp - 4,5%, nông nghiệp - 8,4%, đầu tư cơ bản- 8,2%, xuất khẩu hàng hoá sang các nước SNG tăng 42%, sang các nước khác tăng 21%. Năm 2008 Ca-dắc-xtan khai thác trên 60 triệu tấn dầu. Năm 2008, GDP chỉ tăng 2,4%, đạt 141.2 tỉ USD. Cuối năm 2008, do tác động của khủng hoảng kinh tế, đồng Tenge của nước này đã mất giá đến 50-60% nhưng hiện được Ngân hàng quốc gia hỗ trợ nên vẫn giữ được tỉ giá 150 Tenge/USD (so với 120 Tenge/USD), lạm phát lên đến 20%.

Ca-dắc-xtan là một trong số các quốc gia có diện tích lớn nhất trong các nước SNG, sau Nga. Ca-dắc-xtan có trữ lượng lớn về dầu mỏ. Ca-dắc-xtan cũng là một nước nông nghiệp - chủ yếu chăn nuôi và trồng trọt. Xuất khẩu chủ yếu sang Nga, Trung Quốc, Đức, U-crai-na.

Công nghiệp của Ca-dắc-xtan dựa vào khai thác và chế biến tài nguyên, chế tạo máy xây dựng, máy kéo, máy nông nghiệp. Sau khi Liên Xô sụp đổ, ngành công nghiệp nặng của Ca-dắc-xtan đi xuống. Vào các năm 1995-1997,các biện pháp cải cách kinh tế của Chính phủvà quá trình tư nhân hoá diễn ra nhanh chóng đã đem lại kết quả to lớn trong lĩnh vựctư nhân hoá. Ca-dắc-xtan hiện đang tiến hành chính sách công nghiệp nhằm đa dạng hoá nền kinh tế, để không phụ thuộc quá nhiều vào dầu lửa.

Đối ngoại
Là nước Trung Á lớn nhất trong SNG, Ca-dắc-xtan phấn đấu nâng cao vị thế của mình ở Châu Á. Ca-dắc-xtan chủ trương tăng cường quan hệ với các nước lớn như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, tích cực hợp tác trong Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế, tăng cường hội nhập khu vực và thế giới, tích cực củng cố khối SNG, liên kết Trung Á, tham gia Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, là nước sáng lập Hội nghị về phối hợp hành động và củng cố lòng tin ở châu Á (CICA). Ca-dắc-xtan được bầu làm chủ tịch OSCE năm 2010. Nhìn chung, đường lối đội ngoại là đa dạng, cân bằng và thực tế.

Ca-dắc-xtan là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, WTO, SNG (CIS), IMF… Hiện đang xin gia nhập ARF.

Quan hệ Việt Nam - Ca-dắc-xtan
Quan hệ chính trị

Sau khi Ca-dắc-xtan tuyên bố độc lập, Việt Nam công nhận Ca-dắc-xtan và hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 26-9-1992. Tháng 2-1994 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thăm Ca-dắc-xtan. Tháng 6-1994 Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thăm chính thức Ca-dắc-xtan.

Quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Ca-dắc-xtan tốt đẹp. Trong thời gian qua hai bên đều mong muốn thúc đẩy quan hệ nhiều mặt trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế - thương mại, văn hoá. Thủ tướng ta thăm bạn năm 1994.

Ca-dắc-xtan đánh giá cao thành tựu đổi mới và vị trí của ta ở Đông Nam Á và thế giới. Ca-dắc-tan đã ủng hộ Việt Nam trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc khoá 2008-2009, và hai nước công nhận nhau là nền kinh tế thị trường.

Tháng 6-2005 và tháng 5-2007, Đoàn Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Đào Việt Trung đã sang thăm và tham khảo chính trị với Bộ Ngoại giao Ca-dắc-xtan.Tháng 6-2007 Đoàn liên Bộ do Thứ trưởng Bộ công nghiệp Đỗ Hữu Hào đã thăm và khảo sát tình hình hợp tác với Ca-dắc-xtan.

Cộng đồng người Việt ở Ca-dắc-xtan có khoảng 50 người, chủ yếu ở Almaty (thủ đô cũ) - 30 người, và các tỉnh khác; tại thủ đô Astana chỉ có 3 người. Có 3 người nhập quốc tịch Ca-dắc-xtan; phần lớn có thẻ định cư, làm ăn sinh sống yên ổn.

Ta và bạn đã ký các Hiệp định song phương:

- Hiệp định về hợp tác kinh tế và thương mại (ký ngày 1-2-1994).
- Nghị định thư về hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao (ký ngày 1-2-94).

Hiện đang đàm phán ký các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và về miễn thị thực đối với những người mang hộ chiếu ngoại giao và công vụ.

Quan hệ kinh tế - thương mại

Năm 2002, trao đổi thương mại hai nước đạt 27 triệu, năm 2003 đạt 33,7 triệu USD, năm 2004 đạt khoảng 45 triệu USD. Năm 2005, kim ngạch thương mại hai chiều đạt khoảng 46,14 triệu USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Ca-dắc-xtan khoảng 1,44 triệu USD và nhập từ Ca-dắc-xtan khoảng 44,7 triệu USD. Năm 2006 kim ngạch hai chiều đạt khoảng 20,4 triệu. Năm 2007 đạt khoảng 68,8 triệu USD và năm 2008 đạt 96,1 triệu, trong đó Việt Nam xuất khẩu 23,2 triệu và nhập khẩu 69,6 triệu.

Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam và Ca-dắc-xtan về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật đã được thành lập và họp được hai khoá (khóa I vào tháng 10-1997 tại An-ma-ta và khoá II vào tháng 4-1998 tại Hà Nội).

Khoá họp lần thứ 3 của Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam - Ca-dắc-xtan về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật họp tại thủ đô Ác-xtan-na vào ngày 4-4-2008. Hai bên đặt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 60 triệu USD/năm và thỏa thuận tiến hành họp Ủy ban liên Chính phủ hai nước tại Hà Nội vào năm 2009.

Hiện nay, Đại sứ Ca-dắc-xtan tại Trung Quốc kiêm nhiệm Việt Nam.

Ngày 18-4-2007, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Đại sứ quán Việt Nam tại Ca-dắc-xtan.

Từ 23-10-2008, Đại sứ quán ta tại Ca-dắc-xtan kiêm nhiệm thêm Gru-di-a./.