TCCS - Tây Giang nằm phía tây bắc tỉnh Quảng Nam, giáp với nước bạn Lào và tỉnh Thừa Thiên - Huế. Địa bàn, địa hình phức tạp, giao thông cách trở “nắng bụi mưa bùn”; là một trong 62 huyện nghèo của cả nước. Huyện có 10 xã, trong đó 8 xã biên giới, gần 17 nghìn dân với trên 95% số dân là người dân tộc Cơ-tu.

Sau khi tái lập huyện (2003), Đảng bộ Tây Giang xác định, một trong những giải pháp mang tính đột phá quan trọng để ổn định, phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của địa phương là làm tốt công tác cán bộ, nhất là công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ. Với tinh thần đó, đồng thời quán triệt và thực hiện chủ trương của Đảng, nhất là Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 22-12-2004, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam về “đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc ít người”, hơn 7 năm qua, huyện đã tập trung mọi nguồn lực, ưu tiên đầu tư cho con người, nhất là đội ngũ cán bộ và cán bộ tại chỗ, chủ nhân của rừng núi Tây Giang và thu hút nhân tài từ nơi khác đến. Đặc biệt, giữa năm 2006, Huyện ủy Tây Giang ra Nghị quyết chuyên đề số 02-NQ/HU về “Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ từ huyện đến cơ sở”.

Để cụ thể hóa và triển khai thực hiện tốt chủ trương trên, Ban Thường vụ Huyện ủy quy định tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số trong các ban, ngành ở địa phương phải đạt từ 40% - 50% trở lên. Hằng năm, dành 8 - 10% số biên chế để tiếp nhận sinh viên người Cơ-tu tốt nghiệp đại học (7 năm qua huyện đã tiếp nhận được 69 em); luân chuyển cán bộ xã lên huyện, cán bộ huyện xuống xã. Huyện có chính sách thu hút nhân tài về nhận công tác tại huyện như cấp đất để làm nhà ở ổn định và hỗ trợ kinh phí ban đầu. Riêng cán bộ, công chức có gia đình công tác ổn định tại huyện cũng được hưởng xuất đất không thu tiền, tạo điều kiện thuận lợi cho họ yên tâm công tác, bám cơ sở thường xuyên hơn và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Công tác quy hoạch, đào tạo nguồn cán bộ lâu dài là người dân tộc thiểu số tại chỗ, được Huyện chú trọng thực hiện. Từ năm 2003 đến nay, 279 cán bộ được đào tạo bồi dưỡng. Hiện nay, huyện có 174 cán bộ đang học trung cấp chính trị , 7 cán bộ đang học cao cấp lý luận chính trị, 53 cán bộ đi học các lớp cao đẳng, đại học, 45 cán bộ đi học các lớp trung cấp chuyên nghiệp. Huyện liên kết với Trường Đại học Nông lâm Huế mở tại huyện 1 lớp đại học hệ vừa học vừa làm ngành nông học cho 84 cán bộ, trong đó có 45 cán bộ là dân tộc thiểu số, mở 4 lớp bổ túc văn hóa trung học phổ thông (THPT) cho 160 cán bộ, công chức xã; liên kết với trường Đại học Quảng Nam mở lớp trung cấp sư phạm mầm non cho cô giáo người Cơ-tu dạy bậc mầm non tại các thôn trên địa bàn; Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị của huyện thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Huyện còn thực hiện nhiều hình thức khuyến khích tạo nguồn cán bộ tại chỗ như: dành 1% tổng chi thường xuyên của ngân sách huyện hằng năm lập Quỹ khuyến học; vận động tổ chức, cá nhân có lòng hảo tâm ủng hộ Quỹ “Ươm mầm Tây Giang” thu hút hằng năm trên 300 triệu đồng; hỗ trợ sinh viên đang học 720.000đ/em/năm (hiện có 266 em); gặp mặt, động viên các em vào dịp hè, tết, khen thưởng kịp thời học sinh khá, giỏi và gia đình hiếu học; trích ngân sách mua gạo hỗ trợ học sinh THPT học tại huyện (bình quân 15 kg/ em/tháng), hỗ trợ tiền ăn cho học sinh bán trú cụm xã...

Công tác đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cũng được Huyện thực hiện khá tốt. Cán bộ người dân tộc thiểu số trong đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp trên địa bàn ngày càng chiếm số lượng lớn. Cụ thể hiện nay:

+ Ở cấp huyện: Thường trực Huyện ủy có 2/3 đồng chí, Thường trực UBND huyện có 1/3 đồng chí, Thường trực UBMTTQ Việt Nam huyện có 3/5 đồng chí, Ban Thường vụ Huyện ủy có 6/9 đồng chí, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện có 21/39 đồng chí.

+ Ở cấp xã: Thường vụ Đảng ủy có 39/48 đồng chí, Bí thư có 8/10 đồng chí, Phó Bí thư trực Đảng có 7/10 đồng chí, Chủ tịch HĐND, UBND xã có 10/10 đồng chí là người dân tộc thiểu số.

Bên cạnh đó, huyện còn chú trọng đặc biệt đến việc phát triển đảng viên mới trong đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Từ năm 2003 đến nay, kết nạp được 252 đảng viên mới là người Cơ-tu, chiếm 54,8% tổng số đảng viên mới trên địa bàn.

Kết hợp thống nhất, chặt chẽ việc bố trí cán bộ là người dân tộc thiểu số với cán bộ là người Kinh để tạo nên sức mạnh chung, giúp nhau cùng tiến bộ.

Nhờ đó, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từng bước được nâng lên một cách rõ rệt về phẩm chất chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức cách mạng. Đến nay, huyện có: 1.231 cán bộ, công chức, trong đó cán bộ người dân tộc thiểu số chiếm 45,49% (560 đồng chí). Trong đó, cấp huyện 137/627 đồng chí, cấp xã 337/352 đồng chí. Trình độ học vấn của cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số: THPT 68,3%, Trung học cơ sở 23,1%, tiểu học 8,6%. Về trình độ chuyên môn: đại học, cao đẳng chiếm 10,9%, trung cấp chiếm 29,1%, sơ cấp chiếm 2,9%, 57,1% còn lại đang đào tạo để chuẩn hóa (chủ yếu cán bộ xã). Về trình độ lý luận chính trị: cử nhân, cao cấp chiếm 2,5%, trung cấp chiếm 28,4%, sơ cấp chiếm 3,9%.

Cùng với các mặt công tác trên, Huyện còn tập trung giải quyết chế độ, chính sách cho cán bộ kịp thời, đúng đối tượng. Tuy còn khó khăn về nhiều mặt, nhưng vẫn dành kinh phí hỗ trợ thêm ngoài chế độ chung của Nhà nước dành cho cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số đi học tập; cấp đất ở cho cán bộ từ xã lên huyện công tác và sinh viên người Cơ-tu tốt nghiệp ra trường về nhận công tác tại địa phương. Ngoài ra, Huyện còn thực hiện tốt chính sách đối với các cán bộ dân tộc thiểu số nghỉ hưu như giải quyết đất ở khi về thường trú tại Tây Giang, tiếp nhận, bố trí con em họ vào làm việc các cơ quan Đảng, Nhà nước trên tinh thần “ăn quả nhớ người trồng cây”.

Qua 7 năm chia tách, đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng ở Tây Giang từng bước ổn định, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức và lối sống lành mạnh. Nhiều cán bộ trưởng thành từ cơ sở, năng động bám dân, bám việc, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm cá nhân vì lợi ích chung, tác phong gần gũi nhân dân, được dân tin yêu quý mến. ý thức tổ chức của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trung thực, thẳng thắn, chưa phát hiện vụ việc tham ô, tham nhũng dẫn đến truy tố trước pháp luật. Đội ngũ này đã góp phần lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, xây dựng khối đoàn kết các dân tộc trên địa bàn. Giá trị sản xuất các ngành kinh tế đều tăng cao (nông - lâm nghiệp, thủy sản tăng bình quân 10,14%/năm, công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, xây dựng tăng 35,64%/năm, các ngành dịch vụ tăng bình quân 14, 58%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực (dịch vụ chiếm 48,73%, nông - lâm nghiệp chiếm 32,53%, công nghiệp, xây dựng chiếm 18,74% trong tổng giá trị sản xuất). Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 84,62% theo chuẩn cũ (năm 2005) xuống còn 54,05% (năm 2009), năm 2010 ước còn 49,99%, bình quân mỗi năm giảm 6,12%...

Tuân thủ chế độ, chính sách chung đồng thời sáng tạo, năng động trong đối đãi với cán bộ một cách phù hợp và cụ thể.

Bên cạnh những kết quả trên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Giang vẫn còn nhiều bất cập, khó khăn: tỷ lệ cán bộ là dân tộc thiểu số ở các cơ quan cấp huyện chỉ chiếm 21,9%, trong khi đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 95%; số cán bộ tốt nghiệp THPT đạt 68,4%; cán bộ xã chưa có chuyên môn còn 57,1%; cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp còn mỏng, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Cán bộ có trình độ lý luận chính trị cao cấp ít, phần lớn là trung, sơ cấp. Trong đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số vẫn còn có tư tưởng tự ti, ỷ lại, ngại khó, ngại học, ngại xa gia đình, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên. Bên cạnh đó, việc quy hoạch cán bộ còn bộc lộ nhiều thiếu sót. Tuy có quy hoạch nhưng chủ yếu tập trung ở đội ngũ cán bộ hiện tại, chứ chưa quy hoạch với tầm nhìn xa, chiến lược lâu dài.

Nghị quyết Đại hội XV của Đảng bộ huyện tiếp tục xác định công tác cán bộ và cán bộ dân tộc thiểu số là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành, bại của sự nghiệp xây dựng, phát triển, xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững ở địa phương; phấn đấu đến cuối năm 2015, 100% số cán bộ chủ chốt cấp xã là người dân tộc thiểu số đạt chuẩn quy định. Để làm được điều đó, Tây Giang cần tập trung làm tốt công tác quy hoạch, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, điều động cán bộ. Chú trọng tạo nguồn ở lực lượng sinh viên dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; tuyển dụng, bố trí đúng cơ cấu dân tộc, ngành nghề đào tạo phù hợp nhu cầu địa phương. Đồng thời, đẩy mạnh luân chuyển có thời hạn cán bộ huyện xuống xã, cán bộ xã lên huyện tạo điều kiện cho những cán bộ này tích lũy kinh nghiệm thực tiễn trước khi đề bạt, bổ nhiệm chức vụ cao hơn. Đối với công chức cơ sở quan tâm đầu vào có chất lượng, nguồn tại chỗ là chủ yếu. Về lâu dài quy hoạch chọn lựa học sinh khá, giỏi, rồi đưa đi đào tạo chuyên ngành tạo nguồn cán bộ kế cận sau này.

- Tiếp tục đầu tư đồng bộ cho các trường của huyện; ưu tiên đầu tư cho bậc học mầm non, tiểu học tạo vững kiến thức ban đầu chất lượng để có đà học lên lớp trên tốt hơn. Cùng với Sở Giáo dục và Đào tạo kiến nghị tỉnh cho nâng trường Phổ thông Nội trú Dân tộc huyện thành trường Nội trú Dân tộc cấp 2,3 huyện. Được như vậy các em có chế độ học bổng bảo đảm học tập và rèn luyện tốt, học sinh không bỏ học do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn và cự li đi lại xa.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác cán bộ và cán bộ dân tộc thiểu số ở cơ sở. Biểu dương, khen thưởng kịp thời nhân tố điển hình, tiên tiến để nhân rộng. Đa phần cán bộ dân tộc thiểu số kinh tế gia đình khó khăn, từ đó công việc xã hội bị chi phối, chất lượng, hiệu quả thấp. Để nắm rõ đối tượng này tìm cách giúp đỡ họ vượt qua khó khăn, ổn định công tác. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát nắm được tư tưởng, nguyện vọng, kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa tiêu cực, cơ hội, thoái hóa biến chất, hẹp hòi, tự ti dân tộc.

Đề nghị Trung ương và tỉnh Quảng Nam cần sớm hoàn thiện hệ thống chính sách cho cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ công tác ở vùng dân tộc, miền núi. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách cho cán bộ công tác vùng miền núi và dân tộc. Nhưng còn bất cập, chưa đủ lực hút cán bộ tự nguyện đến công tác ở vùng này.

- Nên có chế độ khen thưởng huân, huy chương cho những cán bộ công tác lâu năm ở miền núi (nhất đối với các cán bộ là dân tộc Kinh)

- Nhà nước quy định cử tuyển phải nhất thiết là học lực khá, giỏi; còn các em học sinh khác không đủ điều kiện xét cử tuyển thì nên mở rộng diện đào tạo dự bị đại học, trên cơ sở đó mới nâng được chất lượng đầu ra.

- Có chế độ khuyến khích học sinh là người dân tộc thiểu số tự thi đậu vào các trường Đại học, cao đẳng giống như sinh viên hệ cử tuyển (mới đây UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số 15/QĐ-UBND, ngày 23-7-2010, về chế độ chính sách ưu đãi trong giáo dục - đào tạo, trong đó có nội dung của vấn đề nêu trên, nhưng chỉ đề cập là sinh viên thi đậu vào trường công lập thuộc tỉnh Quảng Nam mới hưởng chế độ như sinh viên hệ cử tuyển).

- Nhà nước tiếp tục cho nghỉ chế độ trước tuổi cho cán bộ cấp huyện, cấp xã không đủ chuẩn và sức khỏe, để tạo điều kiện cho sinh viên được đào tạo cơ bản có cơ hội tìm việc làm và cống hiến tài năng, sức trẻ và trí tuệ cho sự nghiệp phát triển miền núi và dân tộc./.