TCCS - Sáu mươi lăm năm xây dựng và trưởng thành, những thành tựu đáng kể trong công tác xây dựng Đảng của Sơn La là cơ sở và niềm tin vững chắc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một địa phương còn nghèo, nhưng giàu truyền thống cách mạng.

Từ khi được thành lập (đầu tháng 10 - 1946) với 8 đảng viên, đến nay Đảng bộ Sơn La có 17 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy với 695 tổ chức cơ sở đảng, 4.573 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở và 57.485 đảng viên, trong đó gần 64% số đảng viên là người dân tộc thiểu số, gần 27% là nữ. Đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng ngày càng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn. Đây là thành tựu chính trị quan trọng, là thắng lợi nổi bật trong công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh Sơn La, thể hiện quan điểm xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng của tỉnh là: đẩy mạnh công tác phát triển Đảng (chú trọng phát triển chi bộ ở các địa bàn vùng cao, biên giới đặc biệt khó khăn), tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ dân tộc thiểu số, gắn với lãnh đạo xây dựng và phát triển từng bước vững chắc hệ thống chính trị ở vùng đồng bào dân tộc do chính đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đảm nhiệm.

I - Nhìn lại chặng đường đã qua

Năm 1946, cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Sơn La bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Số đảng viên ít, địa bàn rộng, hiểm trở, chia cắt, giao thông liên lạc rất khó khăn, lại có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số với tập quán và ngôn ngữ khác nhau, hầu hết không biết chữ, nhưng Đảng bộ đã chú ý và làm tốt việc mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc, tổ chức động viên nhân dân kháng chiến, đề ra những chủ trương và tổ chức thực hiện bồi dưỡng sức dân, như cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hiện dân chủ...

Sơn La đặc biệt chú trọng đặc thù của một tỉnh miền núi, nhiều dân tộc để vận dụng các chủ trương, đường lối của Đảng một cách sáng tạo, cụ thể hóa nội dung, ban hành cơ chế, chính sách với bước đi, biện pháp phù hợp. Từ đó, huy động được sức mạnh của toàn dân và hệ thống chính trị thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra.

Năm 1954, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Sơn La cùng với các địa phương ở miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thách thức, khó khăn: nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu; trình độ dân trí thấp kém, hủ tục và tệ nạn xã hội còn nặng nề, đại đa số đồng bào sống trong cảnh đói rách, bệnh tật, mù chữ, thất học; chính quyền từ tỉnh đến xã, bản mới được thành lập thiếu cán bộ trầm trọng; các tổ chức quần chúng còn thiếu và yếu. Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo tổ chức những đợt sinh hoạt chính trị, chỉnh huấn, cuộc vận động “ba xây, ba chống” nhằm chỉnh đốn công tác cán bộ, phát hiện, xác minh và xử lý nghiêm những đảng viên không đủ tiêu chuẩn hoặc các phần tử phá hoại len lỏi vào Đảng; tích cực đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, xây dựng chi bộ xã với nhiều cách làm sáng tạo (thành lập chi bộ dự bị, chi bộ ghép...). Đến cuối năm 1961, tất cả các xã đều có chi bộ, khắc phục tình trạng xã “trắng” đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, số đảng viên là người dân tộc thiểu số tăng lên.

Khi được tái lập (năm 1962), Đảng bộ tỉnh Sơn La tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng chi bộ “bốn tốt”, tạo chuyển biến mạnh tới công tác phát triển, nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức đảng. Đầu năm 1975, 76/142 xã có đảng bộ, 100% số cơ quan, đơn vị thuộc khu vực nhà nước có chi bộ và đảng bộ cơ sở, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số chiếm 63% trong Tỉnh ủy và huyện ủy, trên 85% trong Ủy ban hành chính tỉnh và huyện.

Ba mươi lăm năm sau khi đất nước thống nhất, đặc biệt là sau gần 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986 - 2010), Đảng bộ Sơn La đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang trong tỉnh nỗ lực phấn đấu và lao động sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để giành được những thành tựu phát triển có ý nghĩa quan trọng. Quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo chủ đạo của Đảng bộ là, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó công tác cán bộ là khâu cực kỳ quan trọng, gắn với thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nhằm xây dựng tổ chức đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.

Việc nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững bản chất giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là trọng tâm. Trong điều kiện khu vực và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, trải qua cơn “địa chấn” chính trị đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đại đa số cán bộ, đảng viên của tỉnh vẫn trung thành, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Ngày nay, khi các thế lực thù địch vẫn không ngừng tiến hành “diễn biến hòa bình”, Đảng bộ càng tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của mỗi cán bộ, đảng viên.

Xuất phát từ tình hình thực tiễn địa phương, trên cơ sở quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, Sơn La đặc biệt coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo chỉ thị, nghị quyết của Đảng, từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng.

Tỉnh ủy lãnh đạo các cấp ủy triển khai đồng bộ và tương đối toàn diện việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, ban hành các nghị quyết chuyên đề về củng cố hệ thống chính trị cơ sở, về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ gắn với thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trọng tâm là đẩy mạnh công tác phát triển Đảng ở những cơ sở chưa có đảng viên và chi bộ, xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, củng cố chi bộ yếu kém. Đến nay, 100% số cơ sở (bản, tiểu khu, tổ dân phố, trường học, trạm y tế) có đảng viên, 3.796 cơ sở có chi bộ, chiếm 91,69% số cơ sở. Trong 5 năm (2000 - 2005) kết nạp được hơn 13.000 đảng viên, thành lập mới 1.058 chi bộ. Từ năm 2006 đến tháng 6-2010, gần 15.000 người được kết nạp vào Đảng, trong đó có 1.288 đảng viên ở các cơ sở chưa có đảng viên và tổ chức đảng; thành lập 382 tổ chức cơ sở đảng, 1.852 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.

Trọng tâm đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ là làm tốt công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, bố trí sử dụng cán bộ, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp và cán bộ cơ sở. Tỉnh ủy ban hành các nghị quyết, đề án và chỉ đạo quyết liệt công tác đào tạo gắn với bố trí, sử dụng cán bộ (cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, cán bộ khối đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cán bộ quản lý các doanh nghiệp, cán bộ dân tộc thiểu số). Trong 5 năm (2004 - 2009), tỉnh mở 6 lớp đại học chuyên môn gắn với trung cấp lý luận chính trị cho 649 cán bộ đương chức và dự nguồn cấp xã, trong đó có 606 cán bộ dân tộc thiểu số; tăng cường cử cán bộ đi đào tạo chuyên môn đạt trình độ đại học, trên đại học; ban hành, triển khai thực hiện đề án đào tạo cán bộ trình độ cao (thạc sĩ, tiến sĩ) ở nước ngoài bằng ngân sách tỉnh. Ban hành chính sách phụ cấp cho một số chức danh cán bộ bán chuyên trách ở cấp xã, cán bộ cấp trưởng các tổ chức trong hệ thống chính trị ở bản, chi ủy viên chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở. Trên cơ sở đánh giá, quy hoạch cán bộ, Tỉnh ủy đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ theo quy hoạch để đào tạo cán bộ trong thực tiễn. Hầu hết cán bộ chủ chốt các cấp đều đã kinh qua chức vụ chủ chốt ở cấp dưới. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ ngày càng lớn mạnh, với sự phát triển đáng kể của cán bộ là người dân tộc thiểu số.

II - Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ tỉnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới

Tích cực chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2010 - 2015, Tỉnh ủy Sơn La chỉ đạo đại hội đảng bộ các cấp theo tinh thần đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng; phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương, phát huy cao nhất trí tuệ, trách nhiệm của các cấp ủy, các thành viên trong hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc chuẩn bị và tiến hành Đại hội.

Sơn La xác định, công tác xây dựng Đảng của tỉnh phải đổi mới mạnh mẽ cả về tư duy và hoạt động thực tiễn. Trong 5 năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững; nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ; bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo nhanh và bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội còn bức xúc; tăng cường quốc phòng an ninh và đối ngoại, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm đưa Sơn La ra khỏi tình trạng kém phát triển.

Để lãnh đạo thực hiện mục tiêu đó, Sơn La xác định cần thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng, tập trung vào:

Quan điểm xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng của Sơn La là: đẩy mạnh công tác phát triển Đảng (chú trọng phát triển chi bộ ở các địa bàn vùng cao, biên giới đặc biệt khó khăn), tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ dân tộc thiểu số, gắn với lãnh đạo xây dựng và phát triển từng bước vững chắc hệ thống chính trị ở vùng đồng bào dân tộc do chính đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đảm nhiệm.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mọi tổ chức đảng và đảng viên luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với không ngừng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp công tác giáo dục tư tưởng. Từ đó, góp phần nâng cao tính chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên, chủ động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, chống chủ nghĩa cá nhân... nhằm nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng bộ và mỗi cán bộ, đảng viên.

- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố các tổ chức cơ sở đảng yếu kém; nghiên cứu mô hình tổ chức đảng ở các bản, cụm bản đặc biệt khó khăn nhằm góp phần xây dựng chi bộ ổn định và bền vững. Đổi mới, tăng cường công tác phát triển Đảng (đặc biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy viên, trước hết là bí thư cấp ủy), bảo đảm chất lượng theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Tiếp tục đổi mới nội dung sinh hoạt chi bộ, để mọi hoạt động của chi bộ gắn liền và giải quyết kịp thời các yêu cầu của cơ sở; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động sáng tạo của đảng viên gắn với tăng cường công tác quản lý đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống và thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên.

- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ, tập trung vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ này, nhất là về kiến thức quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, xã hội trong điều kiện đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đặc biệt quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, đội ngũ chuyên gia đầu ngành gắn với từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơ sở theo tiêu chuẩn chức danh công chức.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng gắn với làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, củng cố đoàn kết nội bộ, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ đảng viên. Làm tốt việc thẩm định tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác phát triển Đảng, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, tuyển dụng cán bộ. Tăng cường nắm tình hình chính trị nội bộ để cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, tinh thần cảnh giác trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị.

III - Một số kinh nghiệm từ thực tế

Thứ nhất, không ngừng chủ động đề ra những giải pháp, bước đi phù hợp, sáng tạo để lãnh đạo phong trào cách mạng trên địa bàn, trên cơ sở quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ cho thấy, cần đặc biệt chú trọng đặc thù của một tỉnh miền núi, nhiều dân tộc để chủ động vận dụng các chủ trương, đường lối của Đảng một cách sáng tạo, cụ thể hóa nội dung, ban hành cơ chế, chính sách với bước đi, biện pháp phù hợp. Từ đó, huy động được sức mạnh của toàn dân và hệ thống chính trị thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra.

Thứ hai, đặc biệt coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, giác ngộ cách mạng, chú trọng kết hợp mục tiêu chính trị với chăm lo lợi ích cụ thể của nhân dân từng dân tộc; kết hợp giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị với đưa quần chúng đi vào hành động cách mạng. Từ đó, tăng cường khối đoàn kết dân tộc, xây dựng, củng cố mối liên hệ máu thịt giữa nhân dân các dân tộc với Đảng. Đồng thời, chú trọng phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao trình độ dân trí gắn với phát triển kinh tế - xã hội, nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân.

Thứ ba, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng, chú trọng công tác tạo nguồn cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực, có cơ cấu hợp lý, tương xứng với đặc điểm dân tộc của tỉnh. Tập trung giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vận dụng linh hoạt chính sách cán bộ trong đào tạo, sắp xếp, sử dụng, đề bạt cán bộ và cán bộ nguồn. Thực hiện tự phê bình và phê bình thường xuyên, nhằm trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, phát huy sức mạnh của đội ngũ này trong thực tiễn, làm cơ sở cho sự đoàn kết, thống nhất trong toàn tỉnh.

Thứ tư, chăm lo công tác phát triển Đảng gắn với xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đảng viên theo yêu cầu thực tiễn; tăng cường công tác phát triển Đảng ở tất cả các loại hình cơ sở, nhất là ở các cơ sở chưa có đảng viên và tổ chức đảng, bảo đảm phát triển cả về chất và lượng. Thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, để mỗi chi bộ đều trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, có khả năng quán triệt, vận dụng sáng tạo chủ trương của cấp ủy cấp trên vào thực tiễn và xây dựng nghị quyết lãnh đạo, tổ chức lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện tốt./.