TCCSĐT - Kiểm soát quy mô dân số, chất lượng dân số các vùng biển, đảo và ven biển có hiệu quả sẽ góp phần thực hiện thắng lợi chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) cùng các mục tiêu quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng biển, đảo và ven biển. Đồng thời, Đề án Kiểm soát dân số vùng biển, đảo và ven biển tạo cú hích trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSHSS) nói riêng và nâng cao chất lượng cuộc sống nói chung cho người dân nơi đây.

Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 52/2009/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển giai đoạn 2009-2020. Theo đó, đến năm 2010, quy mô dân số các vùng biển đảo và ven biển không vượt quá 32 triệu người vào năm 2010; 34 triệu người vào năm 2015 và 37 triệu người vào năm 2020.

Mục tiêu của Đề án cũng hướng tới việc người dân sinh sống tại các vùng biển, đảo và ven biển được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình đạt tỷ lệ 60% vào năm 2010, 80% vào năm 2015 và 95% vào năm 2020. Tỷ lệ trẻ em bị dị dạng, dị tật và thiểu năng trí tuệ do rối loạn di truyền giảm bình quân hằng năm khoảng 5% trong giai đoạn 2011-2020.

Bên cạnh đó, xây dựng các loại hình dịch vụ tư vấn, kiểm tra sức khỏe, kiểm tra yếu tố nguy cơ cao ảnh hưởng trực tiếp đến sự mang thai, phát triển và chất lượng bào thai cho những cặp nam nữ chuẩn bị kết hôn. Đề án cũng thiết lập và vận hành hệ thống kho dữ liệu điện tử chuyên ngành về dân số, kế hoạch hóa, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em.

Đề án sẽ được triển khai thực hiện trên 148 quận, huyện của 28 tỉnh, thành phố ven biển, chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ năm 2009 đến năm 2015; Giai đoạn 2 từ năm 2016 đến năm 2020.

Sự cần thiết của Đề án

Các vùng biển, đảo và ven biển hiện nay có quy mô dân số hơn 29 triệu người, chiếm khoảng 34,6% dân số cả nước, mật độ dân số 373 người/km2, gấp 1,5 lần mật độ dân số trung bình của cả nước. Tỷ suất sinh, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao hơn mức bình quân của cả nước. Đặc biệt, khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ có tới 13/28 tỉnh, thành phố ven biển (chiếm khoảng 44% dân số biển) chưa đạt mức sinh thay thế, trong khi cả nước từ năm 2006 đã đạt mức sinh thay thế (dưới 2,1 con). Thực tế này là do tâm lý muốn có con trai “dự phòng”, tỉ số giới tính khi sinh 116-117 bé trai/100 bé gái. Điều đáng lưu ý nữa là tỉ lệ mang thai ngoài ý muốn, tỉ lệ mắc các bệnh viêm nhiễm qua đường sinh sản, lây bệnh qua đường tình dục ở phụ nữ vùng biển rất cao. Đa số phụ nữ ở đây ít được tư vấn, khám để ngăn ngừa những yếu tố nguy cơ cao ảnh hưởng trực tiếp đến việc mang thai và chất lượng bào thai. Trong khi đó, cơ sở vật chất, mạng lưới cung cấp dịch vụ CSSKSS, KHHGĐ ở vùng này vừa yếu vừa thiếu, chưa phù hợp với đặc điểm môi trường và khí hậu biển; hơn 50% trạm y tế ở các xã ven biển chưa có bác sĩ. Với sự hình thành các khu kinh tế biển như hiện nay, các cơ sở y tế ở vùng biển sẽ quá tải trước nhu cầu tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, SKSS, KHHGĐ của người dân, nhất là lao động nhập cư. Dù ngành Dân số có những nỗ lực cố gắng nhưng vấn đề CSSKSS, KHHGĐ tại các vùng biển vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân vùng biển về việc chăm sóc sức khỏe cho chính bản thân, cho bào thai và trẻ sơ sinh còn nhiều hạn chế.

Do đó, Đề án kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển là vô cùng cần thiết nhằm tại điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu về DS- KHHGĐ, góp phần phát triển kinh tế. Đây sẽ là một giải pháp quan trọng, thiết thực giúp thu hẹp những khoảng cách hưởng thụ dịch vụ chăm sóc SKSS - KHHGĐ, đồng thời giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. Nhu cầu sinh con trai của người vùng biển, chất lượng dân số thấp, trẻ em dị tật, dị dạng, thiểu năng trí tuệ chiếm tỉ lệ cao… là những vấn đề sẽ được Đề án này giải quyết. Đề án còn giúp người dân vùng biển tiếp cận được với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, SKSS, KHHGĐ, phòng, chống bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác truyền thông về dân số.

Giải quyết tốt các vấn đề xã hội

Chương trình mục tiêu quốc gia DS-KHHGĐ tuy đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, dù không tách rời các vùng biển, đảo và ven biển nhưng cũng chưa tính đến việc giải quyết những đặc thù riêng về địa lý, kinh tế - xã hội và tập quán khác nhau của người dân sinh sống tại vùng này. Người dân vùng biển, đảo và ven biển chưa có nhiều cơ hội và điều kiện được tiếp cận và hưởng thụ đầy đủ các chính sách, dịch vụ xã hội cơ bản, trong đó có các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình.

Nhận thức rõ tầm quan trọng to lớn của biển đối với sự phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chính sách về biển và các lĩnh vực liên quan đến biển. Trong đó, nhiệm vụ mang tính chiến lược là giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển, đảo và ven biển. Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người cao gấp 2 lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước. Đề án Kiểm soát dân số vùng biển, đảo và ven biển đã tập trung triển khai đồng bộ các hoạt động đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng như tăng cường và nâng cao hiệu quả truyền thông về dân số, SKSS và KHHGĐ cho bà mẹ, trẻ em; Nâng cao chất lượng dân số khi sinh; Hỗ trợ phòng chống bệnh lây truyền qua đường tình dục; Phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn... nhằm góp phần vào sự thành công của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.

Sau hơn một năm triển khai, Đề án Kiểm soát dân số vùng biển, đảo và ven biển đã nhận được sự hưởng ứng tích cực của 28 tỉnh, thành phố thuộc địa bàn đề án. Đặc biệt, có 11 tỉnh, thành phố hỗ trợ thêm kinh phí từ nguồn của địa phương với số tiền 6 tỉ 445 triệu đồng. 6 hoạt động chủ yếu của đề án đã được triển khai và mang lại kết quả bước đầu đáng phấn khởi.

Theo lộ trình Đề án kiểm soát dân số các vùng biển, đảo, ven biển, trước mắt các đơn vị từ trung ương đến địa phương phải coi trọng công tác truyền thông thay đổi thái độ hành vi, phấn đấu đến năm 2015 có 72% số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ tại 28 địa phương vùng biển, đảo, ven biển thực hiện các biện pháp tránh thai; 80% người dân sinh sống làm việc trên đảo và ven biển, trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch, khu kinh tế được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Mỗi năm các địa phương vùng biển, đảo, ven biển giảm 5% số trẻ bị dị dạng, di tật và thiểu năng trí tuệ do rối loạn chuyển hóa và di truyền...

Giải pháp trong thời gian tới

Trên cơ sở những kết quả và tồn tại sau hơn 1 năm triển khai Đề án 52, trong giai đoạn 2011 - 2015 Ban quản lý Đề án cần triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, hoạt động chủ yếu của Đề án nhằm phấn đấu đạt mức sinh thay thế trong toàn vùng; nâng cao chất lượng dân số; nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc SKBM&TE, SKSS, KHHGĐ. Đồng thời nâng cao chất lượng thông tin, quản lý về DS-KHHGĐ; thí điểm và nhân rộng một số loại hình, mô hình; tổ chức các hoạt động hỗ trợ cung cấp dịch vụ chăm sóc SKBM&TE, SKSS, KHHGĐ. Ban quản lý Đề án 52 đề nghị Bộ Y tế và Bộ Tài chính tăng cường đầu tư, trang bị đồng bộ cho các đội lưu động y tế các trang thiết bị chuyên môn (như máy siêu âm xách tay, máy xét nghiệm sinh hóa, kính hiển vi...) và các trang thiết bị truyền thông. Đồng thời hỗ trợ phương tiện đi lại để phục vụ các nhiệm vụ của đề án, đặc biệt là việc triển khai các đội lưu động y tế đến cơ sở thực hiện nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu chăm sóc SKBM&TE/ KHHGĐ.

Định hướng cơ bản của Đề án 52 cho giai đoạn 2011-2015 là: Kiện toàn và nâng cao năng lực tổ chức bộ máy quản lý thực hiện đề án từ Trung ương đến địa phương; đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền vận động nhằm tạo thuận lợi về môi trường chính sách, đầu tư nguồn lực và tạo dư luận xã hội cho tổ chức thực hiện đề án. Chú trọng kênh truyền thông trực tiếp, lấy đội ngũ cộng tác viên và tuyên truyền viên DS-KHHGĐ, y tế cơ sở làm lực lượng chủ đạo; ưu tiên tổ chức đội lưu động y tế tuyến huyện.../.