Liên kết bốn nhà góp phần xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long
TCCSĐT - Ngày 26 -7 - 2011, tại tỉnh Bến Tre, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản phối hợp với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bến Tre tổ chức hội thảo khoa học “Liên kết bốn nhà (LKBN) – Giải pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long”. Các đồng chí: TS Nguyễn Thành Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre; PGS, TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; GS, TS Trương Giang Long, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; đồng chí Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre đã đến dự và chủ trì hội thảo.
Tham dự hội thảo còn có gần 200 đại biểu là đại diện các bộ, ngành Trung ương, các nhà khoa học, lãnh đạo các viện nghiên cứu, trường đại học, sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, hội nông dân, trung tâm khuyến nông, doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân 13 tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), TP Hồ Chí Minh và các cán bộ, biên tập viên Tạp chí Cộng sản.
Phát biểu chào mừng tại hội thảo, TS Nguyễn Thành Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, hoan nghênh Tạp chí Cộng sản đã phối hợp tổ chức hội thảo. Những thông tin từ hội thảo sẽ là cơ sở quan trọng để góp phần giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chủ trương, chính sách đúng đắn về nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Báo cáo đề dẫn do GS, TS Trương Giang Long, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, trình bày tại hội thảo khẳng định: Là vùng kinh tế trọng điểm chiến lược về phát triển nông nghiệp của cả nước, những năm qua ĐBSCL đã có nhiều đóng góp quan trọng vào những thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới. Nơi đây đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh rất hiệu quả, trong đó LKBN là một trong những mô hình cần được tham khảo và nhân rộng. Thực tiễn việc áp dụng mô hình LKBN ở nhiều tỉnh, thành vùng ĐBSCL thời gian qua cho thấy, LKBN là một trong những phương thức tốt nhất cho phép người nông dân tận dụng được nhiều lợi thế để phát triển sản xuất; nhà khoa học có điều kiện để thực hiện năng lực chuyên môn; nhà doanh nghiệp có cơ hội tìm được những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường; Nhà nước có điều kiện thể hiện rõ vai trò của mình với tư cách là người “nhạc trưởng”. Trên cơ sở thực tiễn đó, hội thảo tập trung đánh giá, làm rõ vị trí, vai trò của LKBN nhà ở ĐBSCL thời gian qua và những vấn đề đặt ra; chỉ ra những lợi thế và các mặt hạn chế, thiếu sót của quá trình thực hiện phương thức này. Thông qua việc phân tích, đánh giá khái quát những mô hình hay, hội thảo khẳng định những lợi thế của LKBN, đề xuất một số chủ trương, giải pháp nhằm góp phần phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Hơn 50 tham luận và các ý kiến phát biểu tại hội thảo tập trung vào các vấn đề: Tăng cường LKBN để phát triển kinh tế - xã hội ĐBSCL bền vững; Thực trạng, giải pháp và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện LKBN ở ĐBSCL; LKBN – Giải pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới; LKBN trong định hướng phát triển nông nghiệp theo tiến trình công nghiệp hoá và đô thị hoá; LKBN - nguyên nhân hạn chế và giải pháp nâng cao hiệu quả; Tổ chức sản xuất theo hợp đồng và LKBN trong sản xuất nông nghiệp; Liên kết vùng ĐBSCL - nền tảng thực hiện LKBN; Nâng cao vai trò các thành phần trong LKBN thúc đẩy xây dựng nông thôn mới; Phát huy vai trò của nhà nước, nhà khoa học, nhà kinh doanh, nhà nông trong phát triển nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL; Quan tâm “Nhà nông” hơn nữa trong LKBN; Một số mô hình LKBN có hiệu quả trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở ĐBSCL; Thực hiện LKBN thông qua mô hình “Cánh đồng lúa mẫu”; Tăng cường LKBN – Yếu tố quyết định cho phát triển sản xuất trái cây hàng hoá; LKBN để tăng năng suất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn…
Thời gian qua, ở ĐBSCL đã xuất hiện nhiều mô hình LKBN đạt hiệu quả cao như: Ở Tiền Giang, Công ty ADC (TP Hồ Chí Minh) hỗ trợ kinh phí cho Hợp tác xã Mỹ Thành, xã Mỹ Thành Nam, huyện Cai Lậy xây dựng mô hình sản xuất để được công nhận lúa đạt tiêu chuẩn Global GAP, sau đó bao tiêu toàn bộ số lúa này với giá cao hơn thị trường 20%. Ở Sóc Trăng, Công ty cổ phần Gentraco đầu tư cho nông dân xã Ngọc Đồng, huyện Mỹ Xuyên sản xuất gạo theo tiêu chuẩn GAP và đảm nhận tiêu thụ lúa hàng hóa với giá cao. Ở Đồng Tháp, ngành nông nghiệp khuyến khích doanh nghiệp với nông dân liên kết xây dựng mô hình “Cánh đồng sản xuất theo hướng hiện đại”. Ở An Giang, Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) triển khai Chương trình “Cùng nông dân ra đồng” ở nhiều tỉnh vùng ĐBSCL. Theo đó, AGPPS cung ứng vật tư nông nghiệp, cử những kỹ sư nông nghiệp trẻ, tâm huyết về nông thôn bám trụ, hướng dẫn 3.000 hộ nông dân thực hiện nhiều quy trình canh tác tiến bộ; triển khai xây dựng các cánh đồng mẫu… Các mô hình liên kết này đã tạo thành chuỗi giá trị, giúp khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, thực hiện tập trung nguồn nguyên liệu, lôi kéo doanh nghiệp đầu tư và nối kết sản xuất nông dân với thị trường, thu hút nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ vào nông thôn hiệu quả hơn, tạo cơ sở phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững và xây dựng nông thôn mới ở ĐBSCL.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình LKBN ở ĐBSCL thời gian qua cũng còn một số hạn chế, yếu kém. Trong đó, nổi lên là tình trạng các doanh nghiệp chỉ mới thực hiện ký kết hợp đồng mua bao tiêu sản lượng hàng hóa các loại từ 1-3%; phương thức thu mua của doanh nghiệp chủ yếu là mua đứt bán đoạn đã hạn chế sự ràng buộc giữa xã viên hợp tác xã, nông hộ với doanh nghiệp; tập quán sản xuất nhỏ, cá thể của người nông dân chậm thay đổi nên khó liên kết; khi có rủi ro thì giữa doanh nghiệp và tổ hợp tác, hợp tác xã và nông dân thường không hợp tác, chia sẻ… Nguyên nhân của những yếu kém này là do: thiếu cơ chế, chính sách tạo ra sự liên kết ở quy mô toàn vùng ĐBSCL để làm cơ sở nhân rộng các mô hình LKBN; một số chủ trương, chính sách của nhà nước chưa theo kịp với tình hình thực tế của tăng trưởng sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa; nhà nông thiếu thông tin về thị trường; doanh nghiệp chưa gắn với vùng nguyên liệu, chỉ thực hiện ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm theo từng mùa vụ nhất định; ngân hàng thương mại chưa mạnh dạn giải quyết cho vay vốn tín chấp theo hợp đồng tiêu thụ nông sản; nhà khoa học chưa thường xuyên giúp nông dân ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm…
Hội thảo đã thống nhất đề xuất một số chủ trương, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và nhân rộng các mô hình LKBN thời gian tới. Đó là:
Đối với Nhà nước, nhà quản lý: Nhà nước tham gia vào mối LKBN với vai trò hỗ trợ, điều phối thông qua việc ban hành cơ chế liên kết vùng ĐBSCL; các chủ trương, chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch vùng nguyên liệu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, xúc tiến thương mại, hỗ trợ tín dụng, khuyến khích các doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá với người nông dân; đồng thời là người kiểm tra, giám sát và bảo đảm tính pháp lý cho việc thực hiện hợp đồng giữa các bên...
Đối với nhà khoa học: Cần đầu tư nghiên cứu, tìm giải pháp thiết thực giúp nông dân tiếp cận và ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật; chủ động nghiên cứu, dự báo tác động của biến đổi khí hậu để tư vấn, hướng dẫn nông dân có hướng sản xuất phù hợp, đạt hiệu quả cao. Góp phần nâng cao tri thức, dạy nghề cho nông dân. Chủ động liên kết với doanh nghiệp trong việc tổ chức vùng nguyên liệu, ứng dụng khoa học - công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm chế biến từ nông nghiệp. Kiến nghị các chính sách mang lại lợi ích cho nông dân, doanh nghiệp và xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững...
Đối với nhà kinh doanh: Giữ vai trò tổ chức khởi xướng việc sản xuất theo hợp đồng với nhà nông (cung cấp giống tốt, tổ chức khuyến nông, cung ứng phân bón vật tư…). Doanh nghiệp cần có đề án, kế hoạch vừa trước mắt vừa lâu dài cho việc thu mua, bao tiêu sản phẩm của nông dân với giá thoả thuận, bảo đảm lợi ích của cả hai bên. Đầu tư và thực hiện có trách nhiệm đối với các công trình phục vụ cho sự phát triển của nông dân và nông thôn...
Đối với nhà nông: Cần chủ động học tập, tiếp cận các thành tựu khoa học kỹ thuật, nắm bắt thông tin thị trường để định hướng sản xuất hợp lý, vươn lên thành những người có trình độ ngày một khá hơn, có tác phong của người công nhân trong lĩnh vực nông nghiệp. Tăng cường liên kết, phát triển các hình thức sản xuất trong nông nghiệp theo nhu cầu tự thân, trong đó có kinh tế trang trại, hợp tác xã để chủ động kết nối với nhà khoa học, doanh nghiệp tạo ra sản phẩm chất lượng cao, số lượng lớn đồng bộ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Phát biểu kết luận hội thảo, PGS, TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, cảm ơn những ý kiến tham luận và đóng góp quý báu của các đại biểu tham dự hội thảo. Các tham luận đã khảo luận và làm rõ vị trí vai trò của từng “nhà” trong LKBN và vị trí, vai trò LKBN trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; làm rõ nội hàm và tác dụng của LKBN; phân tích và đánh giá sát hợp thực trạng LKBN, chỉ ra nguyên nhân và những vấn đề đang đặt ra trong LKBN; đề xuất phương hướng, giải pháp để tăng cường LKBN phù hợp với từng vùng, từng địa bàn, nhằm phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống nông dân. Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản sẽ cùng với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bến Tre biên tập, chắt lọc những kết quả hữu ích, những mô hình tốt, những kinh nghiệm hay trong LKBN để kiến nghị với Trung ương Đảng, Chính phủ hoàn thiện những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn phù hợp với yêu cầu thực tiễn đang đặt ra./.
Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng tái đắc cử chức Thủ tướng Chính phủ  (26/07/2011)
Quan tâm cải thiện điều kiện làm việc cho cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động  (26/07/2011)
Chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam  (26/07/2011)
Hội thảo khoa học quốc tế “Phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam và Lào giai đoạn 2011 - 2020”  (26/07/2011)
Liên hợp quốc khai mạc Hội nghị cấp cao về thanh niên  (26/07/2011)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm