Đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án Đầu tư nước ngoài được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký khoảng 98 tỉ USD (kể cả vốn tăng thêm). Hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn 83,1 tỉ USD.

 

1- Tình hình cấp phép từ 1988-2007

Từ năm 1988 đến 1990, chỉ có 218 dự án được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký khoảng 1,58 tỉ USD, chủ yếu dự án quy mô nhỏ, từ khu vực châu Á, nhất là Hồng Kông và Đài Loan.

Thời kỳ 1991 đến 1996, được xem là thời kỳ “bùng nổ ” đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, với 1.397 dự án được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký khoảng 16,2 tỉ USD; năm 1996 có 372 dự án được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký khoảng 8,8 tỉ USD.

Quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án qua các giai đoạn: 1988-1990 đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm; 1991-1995 đạt 13 triệu USD/dự án/năm; 1996- 2000 đạt 14,8 triệu USD/dự án/năm; 2001-2005 đạt 5,2 triệu USD/dự án/năm; riêng 2 năm 2006 và 2007 đạt 14,4 triệu USD/dự án/năm.

Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực bắt đầu từ tháng 7-1997 đã làm giảm sút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Trong 3 năm 1997-1999 có 916 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký 13,11 tỉ USD. Từ năm 2000, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được phục hồi và có xu hướng tăng dần: năm 2003 vốn đăng ký tăng 6% so với năm 2002; năm 2004 vốn đăng ký tăng 42% so với năm 2003; năm 2005 vốn đăng ký tăng 58% so với năm 2005; năm 2006 vốn đăng ký tăng 75,4% so với năm 2005; năm 2007 - năm đạt mức kỷ lục về đầu tư nước ngoài, cao gần gấp đôi so với dự kiến ban đầu: vốn đăng ký tăng 69,% so với năm 2006.

Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỉ USD vượt 73% so với mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 09/2001/NQ-CP (12 tỉ USD), vốn thực hiện đạt 14,3 tỉ USD, tăng 30% so với mục tiêu (11 tỉ USD); năm 2005 vốn cấp mới đạt 6,84 tỉ USD. Trong 2 năm 2006-2007, cùng với tăng nhanh dòng vốn đầu tư, còn xuất hiện nhiều dự án có quy mô lớn đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp nặng (sản xuất sản phẩm công nghệ cao, đồ điện tử, thép...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, tư vấn...).

2- Vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư từ năm 1988 đến năm 2007

Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động đã mở rộng quy mô sản xuất, tăng vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Đến hết năm 2007, có trên 4.000 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỉ USD, bằng 19,2% tổng vốn đầu tư đăng ký mới.

Trong cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài: lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất, chiếm 66,8% về số dự án, 60,2% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện; lĩnh vực dịch vụ chiếm 22,2% về số dự án, 34,4% số vốn đăng ký và 24,5% vốn thực hiện; lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 10,8% về số dự án, 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,7% vốn thực hiện.

3- Tác động của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế

Hai mươi năm qua, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã có những tác động tích cực về nhiều mặt đối với nền kinh tế và sự phát triển của xã hội.

Từ 1998-2007, các tỉnh phía Bắc đã thu hút 2.220 dự án với vốn đầu tư khoảng 24 tỉ USD, chiếm 26% về số dự án, 29% tổng vốn đăng ký cả nước. Hà Nội chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng.
 
Các tỉnh phía Nam từ Ninh Thuận trở vào thu hút 5.452 dự án với tổng vốn 46,8 tỉ USD, vốn thực hiện đạt 15,68 tỉ USD, chiếm 63% về số dự án, 56% về vốn đăng ký và 51% vốn thực hiện của cả nước. Trong đó vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm 64,3% về số dự án và 55,7% về vốn đăng ký và và 48% vốn thực hiện của cả nước.
 
Tỷ lệ thu hút vốn đầu tư nước ngoài Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Tây Bắc, Đông Bắc còn thấp; ở Bắc và Nam Trung bộ trong đó có Phú Yên đã có nhiều khởi sắc .
- Thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
Thời kỳ 1991-1995, tỷ trọng đầu tư nước ngoài trong đầu tư xã hội chiếm 30%, đó là mức cao nhất từ trước đến nay. Tỷ lệ này giảm dần trong giai đoạn 1996-2000 (23,4%), 2001-2005 và 2006-2007 (trên dưới 16%). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước (cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung) đã tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các địa phương như Bình Dương, Đồng Nai, Hải Dương, Vĩnh Phúc... đạt tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp ở mức 60%-70% GDP của tỉnh, khiến diện mạo chung của địa phương có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực.

Đầu tư nước ngoài cũng kích thích sự phát triển của các ngành dịch vụ như: ngành viễn thông, du lịch, kinh doanh bất động sản, dịch vụ vận tải, ngân hàng, thị trường chứng khoán, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, và đóng góp ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước...

- Đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu hằng năm của cả nước cũng có sự đóng góp quan trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 10,6 tỉ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2000 chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu; năm 2003 chiếm 31%. Tính cả dầu thô, tỷ trọng này đạt mức 54% năm 2004 và chiếm 55% trong các năm 2005, 2006, 2007.

- Đóng góp cho phúc lợi xã hội. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm, tăng năng suất lao động và cải thiện nguồn nhân lực. Đến nay, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận dân cư. Đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề cao tăng nhanh. Một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài đảm nhiệm các vị trí quản trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp nước ngoài.

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhìn chung, đã tuân thủ tốt các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. Một số doanh nghiệp đã trở thành “Mô hình mẫu” giới thiệu những hình thức quản lý môi trường hiện đại vào nước ta thông qua việc sử dụng các công nghệ bảo vệ môi trường. Đầu tư nước ngoài cũng tạo điều kiện khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên.