Giá dầu tăng kỷ lục trong những ngày đầu năm 2008 rồi đột ngột giảm gần 3% trong phiên giao dịch ngày 7-1. Người ta cho rằng, lý do chính là do dự báo về thời tiết Mỹ -một nước tiêu thụ dầu nhiều nhất thế giới sẽ ấm lên.
 

Thị trường dầu mỏ thế giới đã liên tục tăng trong năm 2007. Vào tháng 10, trên thị trường Niu - Yoóc (Mỹ), giá 1 thùng dầu là 92 USD. Đến tháng 11 đã tăng lên hơn 97 USD/thùng. Các nhà dự báo khi đó nhận định thị trường dầu sẽ lên đến 100 USD/thùng trong năm 2008 và sẽ còn “sốt” hơn nữa.

Vào đầu năm 2008, những biến động trên thị trường dầu mỏ thế giới đã chứng thực nhận định trên. Giá dầu thô tại thị trường Niu Yoóc (Mỹ) ngày 4-1 đã tăng lên 100,12 USD/thùng, trước đó giá dầu lần đầu vượt mốc 100 USD/thùng vào ngày 2-1. Đến tối 7-1, ngay sau khi các chuyên gia thời tiết dự báo nhiệt độ tại vùng Đông Bắc nước Mỹ - nơi tiêu thụ dầu sưởi nhiều nhất của nước này đang ấm dần lên, khiến nhu cầu dầu sưởi giảm 40%, lập tức giá dầu “hạ nhiệt”. Tại Niu Yoóc, giá dầu giảm 3,11 USD/thùng, giá dầu tại thị trường Luân Đôn cũng giảm 2,69 USD/thùng.

Mặc dù giá dầu đã bất ngờ giảm gần 3% và có mối lo ngại rằng đất nước có nền kinh tế lớn nhất cũng như tiêu thụ dầu nhiều nhất thế giới này có nguy cơ rơi vào suy thoái, nhưng theo nhận định của nhiều nhà phân tích, giá dầu vẫn chưa đến thời điểm ổn định và có thể lại tiếp tục tăng do nền kinh tế Mỹ hiện nay không dễ rơi vào khủng hoảng vì giá dầu như những năm 1980.

Nguyên nhân chính là do nền kinh tế Mỹ đã mạnh hơn trước, trong khi các nền kinh tế đang phát triển năng động tại châu Á hiện nay có thể dễ dàng chịu được những tác động do giá dầu tăng cao. Theo các nhà kinh tế, việc giá dầu tăng hoặc giảm chủ yếu do nhu cầu chứ không phải do những biến động chính trị như đã xảy ra hồi những năm 1970 - 1980.

Tuy nhiên, nếu giá dầu vẫn tiếp tục giữ ở mức cao trong thời gian dài thì nó có thể tác động làm giảm tăng trưởng kinh tế thế giới. Tờ Y-o-mi-u-ri (Nhật Bản) số ra cuối tuần qua nhận định: việc giá dầu tăng lên 100 USD/thùng không chỉ là nhân tố kìm hãm tăng trưởng kinh tế Mỹ, nước chiếm tới 1/4 lượng dầu tiêu thụ của thế giới, mà còn có thể ảnh hưởng tới vai trò của Mỹ trên trường quốc tế.
 
Theo Chủ tịch Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) Cha-kíp khê-li (Chakib Khelil), giá dầu tăng cao trên thị trường quốc tế là do tình hình căng thẳng ở Pa-ki-xtan, bạo lực leo thang ở Ni-giê-ri-a - nước xuất khẩu dầu lửa nhiều nhất châu Phi và lượng dầu dự trữ của Mỹ sụt giảm. Chủ tịch Cha-kíp khê-li cho rằng thị trường dầu mỏ hiện vẫn “đủ cung” nhưng không loại trừ khả năng OPEC có thể tăng sản lượng của khối trong cuộc họp dự kiến diễn ra tại Viên (Áo) vào đầu tháng 2 tới. Cuộc họp sẽ nghiên cứu kỹ những dự đoán về triển vọng phát triển của kinh tế thế giới, nhất là tại Mỹ - nền kinh tế đang bị tác động nặng nề bởi vấn đề tín dụng sau cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực cho vay thế chấp khi thị trường nhà đất sa sút ở nước này. Ông Cha-kíp khê-li tiết lộ nếu kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái, OPEC sẽ không tăng hạn ngạch sản lượng theo lời kêu gọi của nhiều nước để rồi sau đó lại cắt giảm. Ông cũng nhận định giá dầu thế giới có thể giữ ở mức cao đến tận quý I năm 2008, trước khi có khả năng ổn định lại trong quý II.

Yếu tố nổi bật có thể ảnh hưởng tới vị thế của Mỹ là mối quan hệ của “trục dầu lửa” Nga - Iran - Vê-nê-xu-ê-la. Giá dầu cao khiến bộ máy lãnh đạo của các nước này được củng cố và các nhà lãnh đạo đã sử dụng dầu mỏ như "vũ khí ngoại giao" đối với chiến lược toàn cầu của Mỹ.

Giá dầu cao cũng đã tác động tới tình hình chính trị nội bộ Mỹ. Chính quyền của Tổng thống George W.Bush đã chú trọng hơn vào các chính sách tiết kiệm năng lượng, phát triển các nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ, và tái sử dụng các nguồn nhiệt của ô tô. Người Mỹ đang đứng trước sự chọn lựa duy nhất là phải thay đổi cách “sinh hoạt kiểu Mỹ” trong vấn đề năng lượng.

Bên cạnh đó, đối với Nga, giá dầu cao là một động lực quan trọng để chính quyền của Tổng thống V.Pu-tin tiếp tục phục hồi sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị như thời Liên Xô cũ. Gần 40% kim ngạch xuất khẩu của Nga là từ dầu mỏ.

Trung Đông là nguồn cung cấp dầu mỏ quan trọng nhất thế giới. Tuy nhiên, không chỉ sử dụng dầu mỏ làm vũ khí, nguồn tiền thu được từ dầu mỏ cũng là động lực để các nước vùng Vịnh, đặc biệt là A-rập Xê-út và I-ran, mở rộng ảnh hưởng trên trường quốc tế.
 
Giá dầu cao cũng có thể tác động đến các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Những nước như Việt Nam có thể phải cứu nguy về mặt tài chính cho các công ty lọc dầu, và trong trường hợp đó sẽ phải chịu thêm một gánh nặng về tài chính.

Tuy nhiên, theo nhận định của một số nhà phân tích, ảnh hưởng trực tiếp trước mắt của giá dầu tăng cao với các nước châu Á như Việt Nam là tích cực. Chẳng hạn, ngân sách các quốc gia có thể tăng lên nhờ tiền thu thuế kinh doanh đối với các tổ hợp năng lượng đang "ăn nên làm ra". Ví dụ như dự kiến Chính phủ Trung Quốc có thể thu được đến 8 tỉ USD tiền thuế từ dầu trong năm nay. Nhu cầu nhân công từ các quốc gia dầu mỏ ở Trung Đông cũng mở cơ hội cho nhiều người ở châu Á, chưa kể nhu cầu của chính các nước sở tại trong lĩnh vực năng lượng. Một số nước châu Á sản xuất dầu thô như Ma-lai-xi-a và Bru-nây, In-đô-nê-xi-a và Việt Nam sẽ thu được nhiều lợi nhuận./