Thời gian gần đây, các nước Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ và một số quốc gia khác đặc biệt quan tâm tới châu Phi. Trong đó, Mỹ thể hiện rất rõ vai trò và ý định của họ đứng ra “phân vai” cho các quốc gia khác trong cuộc chinh phục và kiểm soát “lục địa đen”.

Châu Phi - nguồn cung cấp dầu mỏ quan trọng của thế giới trong thế kỷ XXI

Nguyên nhân đích thực nào khiến Mỹ và các quốc gia phát triển nhất, giàu có nhất thế giới ngày càng đặc biệt quan tâm đến châu Phi, một châu lục nghèo nhất thế giới hiện nay? Theo dự báo của Bộ Năng lượng Mỹ, nếu năm 2000 tỷ trọng dầu mỏ của châu Phi trong toàn bộ khối lượng dầu mỏ nhập khẩu trên thế giới chiếm chưa đến 9,5%, thì vào năm 2010, con số đó sẽ là 28-30%. Sự gia tăng đó chủ yếu là nhờ dầu mỏ ở các nước nằm ven bờ vùng vịnh Ghi-nê như Ni-gê-ni-a, Gi-nê Xích Đạo và Ăng-gô-la. Cũng vào năm 2010, những quốc gia này sẽ chiếm tới 80% dầu mỏ khai thác ở khu vực cận Xa-ha-ra. Những công trình nghiên cứu mới đây nhất chứng tỏ, nhiều khu vực khác của châu Phi như vùng thềm lục địa của các nước An-giê-ri, Tuy-ni-di, Sát, Ni-gê-ri-a và Mô-ri-ta-ni còn tiềm ẩn khối lượng dầu mỏ khổng lồ.
 
Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu độc lập, nếu duy trì mức độ tiêu thụ dầu mỏ như hiện nay ở các nước phương Tây, trong tương lai không xa, dầu mỏ của châu Phi sẽ chiếm tỷ phần rất lớn trong nhu cầu tiêu thụ năng lượng của Mỹ, Anh, Đức, Pháp và Trung Quốc. Chính vì thế, sự ưu tiên trong chính sách của các nước tiêu thụ nhiều dầu mỏ, trước hết là các nước phương Tây, đối với châu Phi, Cận Đông và một số khu vực khác trên thế giới xuất phát từ chiến lược tranh giành quyền kiểm soát toàn cầu về tài nguyên dầu mỏ.

Mỹ và các nước phương Tây: quyền kiểm soát châu Phi trước hết là kiểm soát dầu mỏ

Bề ngoài, Mỹ và các nước phương Tây đều thống nhất tuyên bố rằng chính sách của họ là nhằm góp phần “giảm căng thẳng xung đột chính trị - quân sự” và giải quyết “các vấn đề có tính nhân đạo” đang đặt ra trước châu Phi khiến nước này rơi vào tình trạng mất ổn định và băng hoại các thể chế nhà nước. Thật ra “chống tham nhũng và bệnh tật” hay “ngăn chặn sự bùng nổ tệ phân biệt chủng tộc” vẫn là những “chuyện thường ngày” ở châu lục này, và để giải quyết cần phải có sự giúp đỡ tích cực của cả cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, những tuyên bố công khai của lãnh đạo các nước phương Tây về cách tiếp cận "thuần tuý nhân đạo" đối với các vấn đề của châu Phi không hoàn toàn phản ánh nội dung chính sách của họ. Phân tích hoạt động thực tế vừa qua của các nước phương Tây tại nhiều quốc gia châu Phi chứng tỏ mục đích của họ là nhằm kiểm soát nguồn tài nguyên dầu mỏ của châu lục này.

Oa-sinh-tơn cho rằng, nhu cầu bảo đảm an ninh năng lượng của một siêu cường thế giới như Mỹ nhờ khai thác tài nguyên dầu mỏ của các quốc gia khác là hoàn toàn “chính đáng”. Nhờ khám phá các nguồn dầu mỏ mới trên lục địa châu Phi và trong các khu vực phụ cận, trong tương lai có tới 30% tổng số dầu mỏ nhập khẩu của Mỹ sẽ là từ nơi này. Hiện tại, riêng Mỹ đã chiếm từ 67% đến 75% tổng khối lượng đầu tư ngày càng lớn của các nước vào hoạt động thăm dò và khai thác dầu mỏ ở châu Phi. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà giới quân sự ở Mỹ đặc biệt quan tâm đến chuyện bảo đảm sự ổn định và an ninh cho hoạt động khai thác và vận chuyển dầu mỏ từ châu Phi.

Tại một cuộc hội thảo quốc tế rất quan trọng được tổ chức gần đây ở Ni-gê-ri-a, dưới sự tài trợ của Trung tâm nghiên cứu về chiến lược của Mỹ ở châu Phi thuộc Học viện quốc phòng Mỹ, các đại biểu đưa ra nhận định, Mỹ cũng như các đối tác phương Tây, đánh giá rất cao khả năng của các nước châu Phi trong việc quản lý và khai thác các tài nguyên năng lượng. Lấy cớ tình hình chính trị nội bộ ngày càng căng thẳng ở nhiều nước châu Phi và nguy cơ ngày càng tăng của các tổ chức tội phạm, một số thế lực chính trị và quân sự ở Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào hoạt động bảo đảm an ninh ở các quốc gia này. Mỹ đã đề nghị các quốc gia châu Phi xây dựng hệ thống bảo vệ các khu khai thác dầu; các tuyến vận chuyển dầu mỏ và khí đốt; huấn luyện và trang bị cho các lực lượng an ninh địa phương với sự giúp đỡ của các tổ chức an ninh, được quân sự hoá của tư nhân hoặc của Chính phủ. Ở cấp độ khu vực, Mỹ tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng một cơ chế quân sự thống nhất để bảo vệ vùng vịnh Ghi-nê với vai trò điều phối và tổ chức của các chuyên gia quân sự Mỹ. Đổi lại, Mỹ yêu cầu mở rộng chế độ thuận lợi nhất cho các hãng dầu mỏ và khí đốt của Mỹ hoạt động trên thị trường châu Phi.

Một hình thức rất có hiệu lực để phổ biến ảnh hưởng và tăng cường quyền kiểm soát lục địa châu Phi là các chương trình viện trợ quân sự do Mỹ, Pháp và Anh thực hiện giành cho các nước này. Trước hết là chương trình tăng cường khả năng gìn giữ hoà bình và chống khủng bố cho các lực lượng vũ trang châu Phi nhằm đối phó với “các mối đe doạ và thách thức mới”. Tháng 5-2002, Chính phủ Mỹ chính thức thông qua chương trình viện trợ mang tên "Huấn luyện và viện trợ quân sự cho các nước châu Phi hành động trong điều kiện khẩn cấp". Nội dung mới có tính nguyên tắc trong chương trình này là chuyển quá trình huấn luyện từ mục đích nhằm duy trì hoà bình trong khuôn khổ Chương 6 Điều lệ Liên hợp quốc sang các hoạt động “cưỡng chế hoà bình” phù hợp với Chương 7 của Điều lệ Liên hợp quốc, nhằm can thiệp vũ trang dưới danh nghĩa Liên hợp quốc.

Các chuyên gia nghiên cứu chính trị ở Mỹ đang nghiên cứu áp dụng hình thức “can thiệp trả đũa” như ở Áp-ga-ni-xtan hoặc "can thiệp phòng ngừa" như tại I-rắc, cho khu vực châu Phi. Mỹ đã không thoả mãn với các hoạt động của Liên hợp quốc nói chung, cũng như các hoạt động gìn giữ hoà bình quốc tế hiện nay nên đã theo đuổi nguyên tắc tổ chức mới. Các chuyên gia quân sự của Mỹ đã đưa ra đề án "Sáng kiến hoạt động gìn giữ hoà bình toàn cầu"(“Global Peace Operations Initiative-GPOI”), được Tổng thống Mỹ G.Bu-sơ chính thức phê chuẩn vào tháng 4-2004 và trình bày tại Hội nghị G8 hồi tháng 6-2004. Tư tưởng chung của sáng kiến này là xây dựng một lực lượng gìn giữ hoà bình ngoài khuôn khổ Liên hợp quốc, sẵn sàng chiến đấu để “dàn xếp” các cuộc khủng hoảng trên thế giới. Xương sống của lực lượng gìn giữ hoà bình này bao gồm 75 nghìn nhân viên quân sự, chủ yếu là các phân đội lực lượng vũ trang các nước châu Phi nhưng được tổ chức và huấn luyện theo ý đồ của Mỹ.
 
Để thực hiện “sáng kiến”, trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2010, Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao Mỹ dự kiến chi khoảng 660 triệu USD. Ngoài ra, Mỹ dự kiến phối hợp với các nước NATO nhằm thu hút các chương trình viện trợ cho châu Phi, như chương trình của Pháp mang tên "Phát triển khả năng của các nước châu Phi nhằm gìn giữ hoà bình". Chương trình này được thực hiện sau khi tiến hành hội nghị lãnh đạo chính trị - quân sự các quốc gia nói tiếng Pháp ở châu Phi, vào tháng 11-1994 tại Pháp, nhằm phát triển ảnh hưởng của Pháp không chỉ đối với các nước nói tiếng Pháp mà còn phát triển sang các quốc gia khác của châu lục này. Cuối những năm 1990, chương trình "Phát triển khả năng của các nước châu Phi nhằm gìn giữ hoà bình" có sự tham gia của các nước thuộc Cộng đồng phát triển Nam Phi và Cộng đồng kinh tế các quốc gia châu Phi, một lần nữa khẳng định quyết tâm và tính chủ động trong chính sách của Pháp đối với "lục địa đen". Pháp đã chi cho chương trình này trên 30 triệu USD trong những năm 2003-2004.

Trung Quốc xúc tiến mở rộng "không gian sinh tồn" sang châu Phi

Cũng cách đây vài năm, khi bắt đầu chính sách mở cửa, các chuyên gia hoạch định chính sách của Trung Quốc đã từng đưa ra khái niệm "mở rộng không gian sinh tồn" hoặc "cuộc tranh giành biên giới mềm" trong thế giới đương đại. Quan niệm đó phù hợp với xu thế toàn cầu hoá đang như một cơn lốc ào ạt tràn qua các châu lục. Quốc gia nào biết tận dụng cơ hội đó để tạo dựng môi trường phát triển, quốc gia đó sẽ thành công. Với tinh thần đó, Hội nghị Thượng đỉnh Trung Quốc - châu Phi diễn ra hồi tháng 11-2006 ở Bắc Kinh (Trung Quốc) đã trở thành một sự kiện quan trọng, chứng tỏ Trung Quốc không chỉ đang "mở rộng không gian sinh tồn" mà còn là "mở rộng không gian phát triển" sang "lục địa đen".

Đây là Hội nghị cấp cao Trung Quốc - châu Phi lần thứ hai với sự tham gia của lãnh đạo hơn 40 nước châu Phi trong số 50 quốc gia ở lục địa này. Các chuyên gia phân tích chính trị quốc tế cho rằng, cả Mỹ và Liên Xô trước đây chưa bao giờ tổ chức được một hội nghị với đông đảo đại diện các nước châu Phi tham dự như Hội nghị cấp cao Trung Quốc - châu Phi năm 2006. Các chuyên gia phân tích chính trị quốc tế cho rằng, Trung Quốc từ lâu đã tìm cách tiếp cận châu Phi với đề án đầu tiên là xây dựng tuyến đường sắt ở Tan-da-ni-a năm 1956. Nhưng chỉ trong thập kỷ gần đây, với tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới, Trung Quốc bắt đầu thực hiện các đề án hợp tác quy mô lớn đối với châu lục này. Năm 2005, khối lượng hàng hoá trao đổi giữa Trung Quốc và châu Phi đã lên tới con số 40 tỉ USD và trở thành đối tác thương mại với châu lục này lớn thứ 3 sau Mỹ và Pháp. Nếu tính theo khối lượng đầu tư vào nền kinh tế châu Phi thì Trung Quốc đứng ở vị trí hàng đầu trên thế giới.

Hội nghị Thượng đỉnh Trung Quốc - châu Phi năm 2006 đề cập đến hợp tác kinh tế là chủ yếu với các cam kết đầu tư đã được ký kết lên tới 1,9 tỉ USD. Theo chương trình phát triển quan hệ kinh tế đến năm 2009, Trung Quốc sẽ cho các nước châu Phi vay ưu đãi với tổng số 3 tỉ USD, đầu tư 2 tỉ USD và xây dựng Quỹ hỗ trợ đầu tư của Trung Quốc trị giá khoảng 5 tỉ USD. Trong các kế hoạch dài hạn của Trung Quốc, có việc tăng khối lượng đầu tư vào châu Phi lên tới khoảng 100 tỉ USD đến năm 2020. Trong khi đó, Trung Quốc chỉ đầu tư vào Nga khoảng 20 tỉ USD. Trung Quốc hứa, sẽ xoá một phần nợ cho các nước nghèo nhất châu Phi và mở thị trường để nhập khẩu hàng hoá châu Phi, chủ yếu là nguyên liệu, và đào tạo 150.000 sinh viên các nước châu Phi tại các trường đại học của Trung Quốc. Để phát triển các cuộc tiếp xúc giữa giới kinh doanh, đồng thời với việc tổ chức cuộc gặp cao cấp ở Bắc Kinh, hai bên đã tổ chức cuộc Hội thảo lớn với sự tham gia của 1.500 doanh nhân, tổ chức triển lãm hàng hoá xuất khẩu từ châu Phi sang thị trường Trung Quốc.

Châu Phi có nguồn dự trữ tài nguyên thiên nhiên rất lớn, trong đó có dầu mỏ và khí đốt là những thứ rất cần cho nền kinh tế Trung Quốc, đồng thời châu Phi cũng rất cần vốn để phát triển và đáp ứng các nhu cầu xã hội. Như vậy, cả Trung Quốc và châu Phi đều rất cần nhau. Khoảng 1/4 dầu mỏ nhập khẩu vào Trung Quốc là từ các nước châu Phi.
 
"Lục địa đen" trở thành thị trường tiêu thụ quan trọng nhất đối với hàng hoá của Trung Quốc. Về phía mình, Trung Quốc đầu tư một khối lượng đáng kể vào nền kinh tế châu Phi, chủ yếu vào những lĩnh vực mà các nhà đầu tư phương Tây coi là "quá mạo hiểm" như đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Chỉ tính riêng một công ty của Trung Quốc là "China Rood and Bridge Corporation" đã thực hiện gần 500 đề án xây dựng hạ tầng cơ sở ở châu Phi. Trước khi diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Trung Quốc - châu Phi năm 2006, công ty "China Civil Engenering Constrruction" đã ký với Ni-gê-ri-a một hợp đồng trị giá 8,3 tỉ USD để xây dựng tuyến đường sắt xuất phát từ các khu vực nằm sâu trong lãnh thổ quốc gia này và kéo dài 1200 km đến bờ Đại Tây Dương. Đây sẽ là đề án đầu tư ở nước ngoài lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc còn giúp phục hồi hoạt động của các xí nghiệp khai thác mỏ ở Ga-bông, Dăm-bi-a và Công-gô. Tổng cộng đã có trên 600 hãng và công ty của Trung Quốc hợp tác với châu Phi.
 
Kể từ Hội nghị Thượng đỉnh Trung Quốc - châu Phi lần thứ nhất đến nay, hai bên đã ký hơn 40 hiệp định kinh tế - thương mại. Các nước châu Phi đặc biệt hài lòng khi thực hiện các đề án quy mô lớn trong khi Trung Quốc không hề gây bất kỳ một áp lực chính trị nào đối với họ, kiểu như "dân chủ hoá" hoặc "bảo đảm quyền con người" như một số nước phương Tây vẫn làm. 
 
Theo dự báo đưa ra trong tờ "Economist Intelligence Unit" (Anh), đến năm 2010, Trung Quốc sẽ trở thành lực lượng kinh tế thương mại chiếm ưu thế ở châu Phi và sẽ là đối tác thương mại chủ yếu của các nền kinh tế lớn nhất ở khu vực này như Ai Cập, Xu-đăng, Ni-gê-ri-a và Ăng-gô-la, đẩy lùi các đối tác truyền thống như Mỹ, Anh và Pháp ra khỏi "lục địa đen". Điều đáng chú ý là trong khi "mở rộng không gian sinh tồn" hoặc "biên giới mềm" sang châu Phi, Trung Quốc sẽ không lặp lai sai lầm của các chế độ thực dân trước đây tại châu lục này mà sẽ chinh phục thế giới theo triết lý của Khổng Tử theo phương châm buộc các đối tác phải "tâm phục khẩu phục".

Ấn Độ: hướng tới đối tác bình đẳng và công bằng với các nhà cung ứng dầu mỏ ở châu Phi

Người ta dự kiến, trước khi kết thúc thập niên đầu trong thế kỷ XXI, Ấn Độ sẽ đứng hàng thứ ba trong số các nước trên thế giới tiêu thụ dầu lửa, sau Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, trữ lượng khoáng sản "vàng đen" của họ rất hạn chế: chiếm 0,5% trữ lượng của thế giới, bằng 1/3 của Trung Quốc, và đang dần cạn kiệt. Vì thế, dự trữ năng lượng là ưu tiên số 1 đối với Ấn Độ. Trong những năm qua, công ty quốc gia của Ấn Độ "Oil and Natural Gas Corporation (ONGC) đã thực hiện chính sách đa phương hoá trong kinh doanh với việc chuyển hướng từ vùng vịnh và biển Cát-xpi sang châu Phi. Hiện tại, Ấn Độ chỉ mới nhập khẩu 20% nhu cầu dầu lửa từ châu Phi so với 70% từ Trung Đông, chủ yếu từ Ả-rập Xê-út, Cô-oét, I-rắc và các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất.

Ấn Độ đang thực hiện đường lối ngoại giao dầu lửa đặc biệt tích cực ở Đông Phi, nơi sự hiện diện của Mỹ và Trung Quốc vẫn còn hạn chế. Nếu như Tan-da-ni-a, Kê-ni-a, U-gan-đa hoặc Ma-đa-gát-xca vẫn chưa sản xuất được dầu lửa, thì việc nghiên cứu địa chất mà các kỹ sư Ấn Độ tiến hành ở đây đã đạt được kết quả tốt. Tại Xu-đăng, "ONGC" đã được lợi từ sự ra đi của công ty "Talisman" của Ca-na-đa. Từ tháng 3-2003, ‘ONGC’ nắm giữ 1/4 số vốn của "GNPOC" và được nhận thầu phần xây dựng và đưa vào sử dụng một nhà máy lọc dầu ở Cảng Xu-đăng. Tháng 6-2005, "Videocon", một công ty tư nhân khác của Ấn Độ đã ký với chính phủ Xu-đăng một hiệp định cho phép công ty này tiến hành khoan thăm dò dầu khí ngoài khơi. "ONGC" cũng đã đầu tư lớn vào hoạt động khai thác và thăm dò dầu khí ở Li-bi, Cốt Đi-voa, kể cả hoạt động phối hợp với công ty "SINOPEC" Trung Quốc và công ty "Vanco Energy" của Mỹ. Tháng 3-2005, "ONGC Videsh Limited", kết hợp với "IPR Energy Red Sea" của Mỹ đã nhận được quyền thăm dò khu vực Ra-ma-đa ở Ai-cập.

Ấn Độ khuyến khích quan hệ đối tác bình đẳng và công bằng với các nhà cung ứng châu Phi chứ không phải là một đối tác chỉ muốn tranh giành tài nghuyên của châu lục này. Vì vậy, các công ty của Ấn Độ còn chú ý tăng cường đầu tư vốn vào các lĩnh vực khác của các nước châu Phi. Ấn Độ hiện có Công ty "Candino" đã xây dựng một nhà máy dệt may ở Tan-da-ni-a; Công ty "Tata Motors" hiện diện ở Nam Phi; "Ranbaxy", một trong những phòng thí nghiệm dược học hàng đầu thế giới của Ấn Độ, có các nhà máy ở Dăm-bi-a, Cốt Đi-voa, đảo Mô-ri-xơ và Ni-giê-ri-a. Tại Ma-đa-gát-xca, công ty "Petroleum India International" (PII) của Ấn Độ đã giúp nước này cải tạo nhà máy lọc dầu Solima (Solitany Malagasy). Ấn Độ là bạn hàng số một với vai trò là nước nhập khẩu đào lộn hột hàng đầu thế giới từ châu Phi. Ấn Độ cũng là một trong những khách hàng hàng đầu mua bông của U-gan-đa. Sự gần gũi về ngôn ngữ và văn hoá với các nước Đông Phi nói tiếng Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác song phương đó. Ấn Độ có thể dựa vào các công dân của họ sống ở Đông Phi và miền Nam châu Phi, đặc biệt ở Nam Phi, Kê-ni-a và Tan-da-ni-a.

Châu Phi nói tiếng Pháp cũng nằm trong tầm ngắm của Ấn Độ. Sáng kiến mới đây nhất theo hướng này là Dự án "Team-9" hợp tác kỹ thuật giữa Ấn Độ với 8 nước Tây Phi, gồm Ga-na, Buốc-ki-na Pha-xô, Sát, Cốt Đi-voa, Ghi-nê Xích-đạo, Ghi-nê Bi-xô, Ma-li và Xê-nê-gan. Trong khuôn khổ dự án này, Ấn Độ cam kết ủng hộ các đối tác nửa tỉ USD dưới hình thức tín dụng, viện trợ và chuyển giao công nghệ. Tháng 7-2005, Ấn Độ đã cho Ghi-nê Bi-cô vay 70 triệu USD trong thời gian 20 năm với một tỷ lệ ưu đãi 1,7%. Hành động này đã góp phần đưa Ấn Độ trở thành bạn hàng số 1 của Xê-nê-gan.

Tương lai nào cho châu Phi?

Trong tương lai vài thập niên tới đây khi các giải pháp thay thế như năng lượng sinh học, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng hạt nhân v.v.. chưa thể làm tròn chức năng của dầu mỏ, thì các khu vực tiềm ẩn nhiều ‘vàng đen’ như châu Phi vừa có cái may trời cho, vừa phải chịu cái họa do con người mang lại. Họ chỉ có thế phát huy được cái may đó một khi có đường lối độc lập tự chủ, vừa có chính sách ngoại giao đa phương để tranh thủ sự trợ giúp quốc tế, đồng thời vừa được các quốc gia khác tôn trọng lợi ích dựa trên cơ sở các bên cùng có lợi. Đó là cũng là cách ứng xử hợp lý nhất trong trật tự thế giới đương đại khi an ninh và thịnh vượng của mỗi quốc gia cũng là an ninh và thịnh vượng của toàn thế giới./.