Thực hiện mục tiêu “dân giàu” trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
TCCS - Dân giàu là khát vọng ngàn đời của nhân dân ta, cũng là đặc trưng, mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa do Đảng ta lãnh đạo nhân dân phấn đấu xây dựng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chìm đắm hàng nghìn năm trong đêm trường phong kiến và nô lệ, nhân dân ta phải chịu cảnh lầm than, đói nghèo cùng cực. Mong ước về một cuộc sống ấm no luôn là nguyện vọng tha thiết, cháy bỏng của mọi tầng lớp nhân dân...
Kỳ I: Chặng đường 40 năm thực hiện mục tiêu “dân giàu”: Bước phát triển vượt bậc về nhận thức lý luận và thành quả thực tiễn
Thực hiện mục tiêu “dân giàu” ở Việt Nam và kinh nghiệm của thế giới
Là đứa con nòi của nhân dân lao động, gánh vác sứ mệnh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác ngoài phấn đấu cho nguyện ước và lợi ích của nhân dân. Do đó, dân giàu trở thành lý tưởng để hiệu triệu và tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân, cũng có nghĩa là làm cho nhân dân ngày càng giàu có cả về vật chất và tinh thần. Mục đích nâng cao đời sống toàn dân là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn.“Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(1).
Mục tiêu dân giàu được Đảng ta đề cập từ sớm, bằng nhiều cách thức diễn đạt khác nhau trong các văn kiện, quyết sách chính trị quan trọng. Tuy nhiên, mục tiêu “dân giàu” nằm trong chỉnh thể hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên được Đảng ta đưa ra tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), thể hiện ở 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó đặc trưng đầu tiên là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Hệ mục tiêu này thể hiện những định hướng giá trị phát triển đất nước, dân tộc, xã hội và con người Việt Nam mà chúng ta phấn đấu xây dựng; là hệ mục tiêu chung, bao trùm, cho cả giai đoạn đến khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, dân giàu là mục tiêu đầu tiên nằm ở nhóm mục tiêu đầu của cả hệ mục tiêu (đặc trưng) của xã hội xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu, là mục tiêu đầu tiên, khởi nguồn, làm tiền đề, dẫn dắt và quyết định các mục tiêu khác.
Mục tiêu dân giàu mang những giá trị chung của nhân loại, nhưng đồng thời mang những tiêu chí, giá trị riêng của nước ta, phù hợp với đặc điểm về chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, bản sắc văn hóa, các vấn đề xã hội đặt ra…, đặc biệt nó phải mang những giá trị, bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời luôn được đặt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều kiện, trình độ ở từng giai đoạn, chặng đường phát triển. Mục tiêu dân giàu gắn chặt với phát triển xã hội dân giàu, tức phát triển một xã hội không chỉ chăm lo khía cạnh xã hội của sự phát triển, tập trung vào những nhóm vấn đề thiết yếu, cụ thể đối với nhu cầu tồn tại và phát triển của đời sống con người, mà còn phát triển hài hòa cả về đời sống vật chất và tinh thần của cá nhân và cộng đồng; phát triển xã hội đặt trong mối quan hệ với phát triển kinh tế và rộng hơn là chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, môi trường...
“Dân giàu” là mục tiêu đầu tiên trong hệ mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, “dân giàu” có thể coi là điểm xuất phát, tiền đề, điều kiện của các mục tiêu khác, trong mối quan hệ bổ trợ tác động qua lại khăng khít.
Kinh nghiệm của một số nước thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu” trên thế giới cho thấy, muốn đạt mục tiêu dân giàu cần sự phát triển tổng thể nền kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là tăng trưởng GDP và GDP/người, GNI/người, trong đó có những giai đoạn phát triển đột phá (như giai đoạn phát triển thần kỳ của Nhật Bản, của Na Uy) với tốc độ tăng GDP rất cao hai con số để thoát khỏi bẫy thu nhập hiện tại, nhất là bẫy thu nhập trung bình với các quốc gia đang phát triển.
Nếu không có sự bứt phát, cùng những động lực phát triển mới, trong một thời gian liên tục rất dễ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Thái Lan là một điển hình rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” hiện nay. Số liệu từ Bộ Tài chính Thái Lan cho biết vào năm 2025 với 14,5 triệu người trên 60 tuổi, chiếm 20,7% tổng dân số, “xứ chùa vàng” sẽ chuyển sang giai đoạn già hóa. Trong khi đó, mức thu nhập đầu người của Thái Lan hiện chỉ đạt khoảng 7.500 USD/năm, là nền kinh tế có thu nhập trung bình cao. Để bước vào ngưỡng nền kinh tế thu nhập cao, GDP bình quân đầu người phải đạt mức trên 12.536 USD/năm. Khoảng cách này còn xa và Thái Lan khó hy vọng trong đạt được trong 5 năm tới.
Thái Lan đã đạt GDP bình quân đầu người 1.000 USD/năm vào năm 1998 và có thời gian tăng trưởng kinh tế cao bình quân 7,5%/năm trước năm 1990, nhưng sau đó ngày càng chậm lại, giảm dần xuống còn 5,3%/năm, rồi 4,3%/năm trong hai thập kỷ qua và hiện nay khoảng 3%/năm. Thái Lan đang đối mặt với thách thức là số người già tăng lên và lực lượng lao động giảm. Những thay đổi trong cơ cấu dân số của Thái Lan sẽ dẫn đến giảm năng suất, giảm tăng trưởng, đồng thời làm tăng cao chi phí chăm sóc sức khỏe, trong khi mức thu nhập đầu người thấp. Trước tình hình này, nhiều nhận định cho rằng, Thái Lan sẽ trở thành quốc gia lớn đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á mắc “bẫy thu nhập trung bình” - một minh chứng cho những quốc gia đang phát triển, nếu không bứt phá trong giai đoạn “dân số vàng”, sẽ khó bước vào giai đoạn thịnh vượng.
Hai là, tập trung phát triển kinh tế, nhất là chuyển nền kinh tế phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, bền vững, trên cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, tinh thần làm giàu, khuyến khích mọi người dân tham gia vào các hoạt động kinh tế. Gắn chặt tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, các chính sách xã hội, hoàn thiện cơ chế phân phối thu nhập thông qua áp dụng các chính sách thuế, bảo hiểm xã hội để bảo đảm công bằng trong phân phối thu nhập, giúp giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo và duy trì ổn định xã hội, tránh phân cực xã hội.
Ba là, các nước giàu có thường có năng suất lao động rất cao, không chỉ do công nghệ hiện đại, mà còn nhờ vào chất lượng nguồn nhân lực và môi trường làm việc hiệu quả. Do đó, cần lấy con người làm trung tâm trong sự phát triển. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định sự thịnh vượng của một quốc gia. Các nước phát triển đã thành công nhờ đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục và đào tạo thông qua cải cách hệ thống giáo dục, xây dựng một nền giáo dục gắn liền với thực tiễn và nhu cầu của thị trường lao động. Đào tạo các kỹ năng cần thiết cho kỷ nguyên số, bao gồm tư duy phản biện, kỹ năng giải quyết vấn đề và sự sáng tạo. Đào tạo nghề và học tập suốt đời, tạo điều kiện cho người lao động được đào tạo lại và nâng cao kỹ năng để thích ứng với sự thay đổi của công nghệ. Thu hút và giữ chân nhân tài, cả trong và ngoài nước, bằng các chính sách đãi ngộ hấp dẫn và môi trường làm việc chuyên nghiệp.
Bốn là, xây dựng môi trường pháp lý và thể chế hiệu quả; phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại. Một nền kinh tế thịnh vượng không thể tồn tại nếu thiếu một hệ thống pháp luật rõ ràng, minh bạch và một thể chế vững mạnh. Bảo đảm quyền sở hữu tài sản và quyền kinh doanh của người dân, tạo động lực để họ làm giàu một cách chính đáng và hợp pháp. Đầu tư vào hạ tầng giao thông hiện đại để giảm chi phí vận tải và kết nối các vùng kinh tế; phát triển hạ tầng số để thúc đẩy kinh tế số và chuyển đổi số.
Qua gần 40 năm đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng về mục tiêu “dân giàu” và thực hiện mục tiêu “dân giàu” đã có sự phát triển ngày càng toàn diện, sâu sắc và gắn với yêu cầu thực tiễn của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
Ở giai đoạn 1986 - 2011, trong bối cảnh đất nước vừa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trọng tâm nhận thức của Đảng về “dân giàu” tập trung chủ yếu vào việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của người dân. Giá trị “giàu” được nhìn nhận trước hết ở khía cạnh vật chất: có đủ ăn, đủ mặc, thoát nghèo, nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống. Đây là giai đoạn định hình tư duy, đặt nền móng cho việc gắn mục tiêu “dân giàu” với quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời từng bước hình thành các chính sách an sinh xã hội cơ bản.
Bước sang giai đoạn từ 2011 đến nay, nhận thức lý luận của Đảng về “dân giàu” đã được mở rộng và nâng cao, không chỉ dừng lại ở phương diện kinh tế, mà còn chú trọng đến các nhu cầu nâng cao và phát triển toàn diện của con người. Giá trị “giàu” ngày càng được hiểu theo nghĩa hài hòa: vừa giàu về vật chất, vừa giàu về tinh thần; vừa phát triển kinh tế, vừa coi trọng văn hóa, xã hội và môi trường. Điều này phản ánh sự trưởng thành trong tư duy lý luận, khi Đảng đặt mục tiêu “dân giàu” trong mối quan hệ biện chứng với phát triển bền vững, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nhìn chung, quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng về mục tiêu “dân giàu” thể hiện sự kế thừa và phát triển, từ việc tập trung giải quyết những vấn đề bức thiết về vật chất đến việc hướng tới một xã hội phồn vinh, hạnh phúc, con người phát triển toàn diện.
Kết quả thực hiện mục tiêu “dân giàu” qua 40 năm đổi mới ở Việt Nam
Sau gần 40 năm đổi mới, việc thực hiện mục tiêu “dân giàu” của Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Nhận thức lý luận về thực hiện mục tiêu “dân giàu” ngày càng hoàn thiện, đầy đủ và toàn diện hơn. Từ quan niệm về mục tiêu “dân giàu” và thực hiện mục tiêu “dân giàu” còn khá đơn giản, mới dừng lại ở đáp ứng những nhu cầu thiết yếu, cơ bản đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, còn có nhiều giới hạn về nhận thức lý luận khi chưa cởi mở trong quan niệm về làm giàu, chưa khuyến khích toàn dân làm giàu, thậm chí có những kỳ thị đối với thương nhân, thương nghiệp, đối xử chưa công bằng giữa các thành phần kinh tế; trong tư duy lý luận, mục tiêu phát triển thường nhấn mạnh vào công bằng xã hội mang tính bình quân phân phối, bình quân chủ nghĩa, chưa thật sự đặt trọng tâm vào làm giàu hợp pháp, quan điểm “giàu nghèo” còn mang tính định kiến, nhận thức về động lực của cá nhân trong phát triển kinh tế - xã hội chưa được coi trọng, đến việc chính thức xác lập dân giàu là một mục tiêu hướng đến của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, gắn với nước mạnh, xác lập dân giàu trong tổng thể hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mở rộng khái niệm dân giàu toàn diện hơn khi ngày càng coi trọng các yếu tố tinh thần, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh, an toàn, cùng với giàu có về vật chất là giàu có về tinh thần, trí tuệ, đạo đức, hòa hợp với thiên nhiên, nhấn mạnh khái niệm dân giàu gắn với chất lượng sống, tiếp cận dịch vụ xã hội, cơ hội phát triển bình đẳng, giàu có ngày càng đi vào chiều sâu, sự nhân văn và bền vững hơn khi gắn với chung hưởng, bao trùm, toàn dân cùng giàu, “không ai bị bỏ lại phía sau”, thu hẹp bất bình đẳng xã hội, dân giàu gắn với sự phát triển chiều sâu và gia tăng giá trị của đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất mới gắn với quan hệ sản xuất phù hợp...
Cùng với việc định hình hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nhận thức lý luận về mục tiêu dân giàu có sự thay đổi về chất, dân giàu về lâu dài trở thành mục tiêu đầu tiên trong đích đến của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; trước mắt là mục tiêu chiến lược, nền tảng của sức mạnh quốc gia, giàu có của nhân dân là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển.
Nhận thức lý luận về mục tiêu dân giàu và thực hiện mục tiêu dân giàu ngày càng tiệm cận với các giá trị của nhân loại, nhiều tiêu chí bám sát các tiêu chí theo chuẩn mực quốc tế, được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế áp dụng, song có sự tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta, nhất là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện rõ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Đây là những sự phát triển nhận thức lý luận quan trọng, soi đường cho việc thực hiện mục tiêu dân giàu trong thực tiễn.
Việc thực hiện mục tiêu dân giàu đạt được những thành tựu quan trọng, người dân ngày càng giàu có hơn về đời sống vật chất và tinh thần. Từ một nước nghèo, kém phát triển, đời sống của nhân dân gặp muôn vàn khó khăn, dân giàu là một khát vọng dường như chỉ có trong lý tưởng khi đất nước bắt đầu đổi mới, sau gần 40 năm, Việt Nam đã có những bước phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; người dân ngày càng đầy đủ, giàu có hơn về vật chất, văn hóa, tinh thần, được thụ hưởng ngày càng nhiều hơn những thành quả phát triển của đất nước.
Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, từ nước kém phát triển, thu nhập thấp, Việt Nam vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao trong năm 2025 hoặc 2026; tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, giảm từ 58% năm 1993 xuống còn khoảng dưới 1,9% năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều; tầng lớp trung lưu và cận trung lưu tăng nhanh. Đến năm 2024, tầng lớp trung lưu chiếm khoảng trên 20% dân số và đang tăng lên nhanh chóng, theo dự báo đến năm 2030 có thể chiếm trên dưới 50% dân số. Đây là số liệu minh chứng thuyết phục về thành tựu thực hiện mục tiêu dân giàu ở nước ta.
Người dân không chỉ được đáp ứng những nhu cầu cơ bản, mà còn được đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao, toàn diện hơn về học tập, y tế, chăm sóc sức khỏe, vui chơi giải trí, văn hóa, an ninh con người, an sinh xã hội, an ninh xã hội, môi trường sống an toàn, trong lành, hòa hợp với thiên nhiên. Dân giàu không chỉ dành cho một thiểu số mà lan tỏa tinh thần làm giàu chính đáng, năng lực làm giàu, khởi nghiệp toàn xã hội. Tuổi thọ trung bình tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên khoảng 74,7 tuổi năm 2025. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam thuộc nhóm nước trung bình cao của thế giới. Chỉ số hạnh phúc theo xếp hạng của Liên hợp quốc năm 2025 tăng 8 bậc so với năm 2024, lên thứ hạng 46/143 quốc gia (năm 2020 xếp thứ 83).
Nguyên nhân của những thành tựu trên là do:
Một là, sự lãnh đạo và tổ chức thực hiện của Đảng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu”. Việc thực hiện công cuộc đổi mới đã mở ra một kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, đạt được những thành tựu mang tính lịch sử, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhân dân có điều kiện làm giàu chính đáng.
Qua gần 40 năm đổi mới, từ định hướng, Đảng ta đã định hình được lý luận về đường lối đổi mới, một bộ phận lý luận cấu thành quan trọng nhất (hoặc cũng chính là) lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam, là một chỉnh thể hệ thống lý luận, hơn nữa là một thành tố cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng ta, soi đường cách mạng Việt Nam. Đây là hệ thống lý luận ngày càng hoàn chỉnh, được Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát hiện và phát triển, thể hiện rõ nhất và khẳng định trình độ trí tuệ, bản lĩnh và năng lực lãnh đạo của Đảng ta. Lý luận về đường lối đổi mới là sự kết tinh trí tuệ, tâm huyết, công sức của tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta qua các kỳ đại hội Đảng. Đây là hệ thống quan điểm toàn diện, vừa bao hàm nội dung tổng quát, vừa chứa đựng những nội dung cụ thể trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, mà nội dung chính là lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ mới. Công tác nghiên cứu lý luận cần tiếp tục bổ sung, không ngừng hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, để đến năm 2045, khi nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, sẽ có một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học và hiện đại về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đặc biệt, trong lý luận về đường lối đổi mới, hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, cũng là đặc trưng đầu tiên của xã hội xã hội chủ nghĩa, mục tiêu dân giàu được xác lập và khẳng định qua nhiều nhiệm kỳ đại hội Đảng là mục tiêu đầu tiên, có vai trò quan trọng, tạo tiền đề cho các muc tiêu khác. Mục tiêu dân giàu ngày càng được mở rộng nội hàm, hoàn thiện về khái niệm, là cơ sở lý luận để dẫn dắt thực tiễn, giúp quá trình thực hiện mục tiêu dân giàu trong thực tiễn, qua gần 40 năm đổi mới, đạt được những thành tựu to lớn.
Hai là, tăng trưởng kinh tế nhanh và phát triển kinh tế bền vững trên nền tảng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yếu tố trung tâm mang tính quyết định để thực hiện thành công mục tiêu dân giàu. Từ chỗ phủ nhận kinh tế thị trường, coi kinh tế thị trường đối lập với chủ nghĩa xã hội, đảng viên không được làm kinh tế tư nhân, Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường là sản phẩm chung của văn minh nhân loại; là phương thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong những trụ cột của thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước; đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Đồng thời, nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng được nhận thức đầy đủ hơn.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong những trụ cột của thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước; là sự sáng tạo và đột phá lý luận của Đảng ta. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Từ chỗ coi sở hữu trong nền kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đơn sở hữu, đối xử phân biệt, nhất là đối với thành phần kinh tế tư nhân, Đảng ta đã xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế đa sở hữu, đa thành phần kinh tế; các khu vực kinh tế tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trong nhất của nền kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tiếp tục có những đổi mới, nanag cao năng lực quản trị, nắm giữ những lĩnh vực trọng yếu, then chốt của nền kinh tế… Nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh mới được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển lực lượng sản xuất mới.
Hệ thống thị trường được tạo dựng đồng bộ, hiện đại phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Hệ thống đồng bộ yếu tố thị trường, như hàng hóa, dịch vụ, các yếu tố đầu vào và nguồn lực của sản xuất, kinh doanh, giá cả thị trường...; các loại thị trường, như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường các nhân tố sản xuất… ngày càng hoàn thiện. Từ nhận thức phải sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quy luật giá trị với tư cách là yếu tố bổ sung cho kế hoạch trong cơ chế vận hành của nền kinh tế, Đảng ta từng bước khẳng định nền kinh tế phải vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, trong đó cần phát huy tính năng động, sáng tạo của các chủ thể trong phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có sự gắn kết hữu cơ và biện chứng giữa tính thị trường, tính phổ quát với tính xã hội chủ nghĩa, tính đặc thù của Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một dạng thức của kinh tế thị trường trên thế giới, một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trên thế giới trong giai đoạn 1986 - 2024 (bình quân khoảng 6-7%/năm); nếu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, quy mô kinh tế có thể vượt 500 tỷ USD, nằm trong TOP 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Đây là điều kienẹ quan trọng tạo tiềm lực kinh tế để Việt Nam thực hiện mục tiêu dân giàu có chất lượng, diện bao phủ ngày càng tăng. Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam có khoảng 940.078 doanh nghiệp đang hoạt động, tăng trưởng khá nhanh, là lực lượng tiên phong, nòng cốt làm giàu cho người dân và đất nước.
Ba là, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, chăm lo các chính sách xã hội. Nền kinh tế có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa; giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển; là nền kinh tế phát triển hài hòa với tự nhiên và coi bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ mang tính sống còn. Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, cũng như không đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế với môi trường. Từ phân phối thu nhập bình quân, cào bằng, từ không thừa nhận đến thừa nhận đa dạng hóa hình thức phân phối thu nhập và phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Tăng cường quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội. Quản lý phát triển xã hội bền vững bao gồm cả quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững trên cơ sở phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế. Thực hiện miễn học phí đối với học sinh mẫu giáo và phổ thông các cấp. Xóa nhà tạm, nhà dột nát trong năm 2025. Xây dựng 1 triệu căn hộ cho người thu nhập thấp và công nhân lao động…
Qua gần 40 năm đổi mới, các chỉ số về cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội… đều được nâng lên. Người dân có điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, môi trường sinh thái, môi trường sống, làm giàu về trí tuệ, văn hóa, cơ hội phát triển…
Bốn là, không ngừng hoàn thiện về thể chế, mở rộng hành lang pháp lý thuận lợi, bảo đảm các điều kiện pháp lý để nhân dân làm giàu chính đáng. Ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng trong xây dựng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng; chú trọng xây dựng thể chế, pháp luật và khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, đồng thời, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường; thúc đẩy phát triển các mô hình kinh doanh mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các loại hình doanh nghiệp,... góp phần bảo đảm tiến bộ, công bằng trong tiếp cận các nguồn lực để phát triển kinh tế; từ đó, tạo cơ sở, điều kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng về khía cạnh xã hội ở từng giai đoạn cụ thể. Hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo được hình thành, ngày càng năng động. Người dân được làm bất cứ việc gì pháp luật không cấm đề làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình và xã hội.
Năm là, hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư phát triển mạnh mẽ. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, trở thành nền kinh tế mở bậc nhất thế giới. Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 34 nước, trong đó có tất cả các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước lớn; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế, có quan hệ chính trị, quốc phòng, an ninh phát triển sâu rộng, thực chất.
Việt Nam có quan hệ thương mại với trên 220 quốc gia, vùng lãnh thổ. Kim ngạch thương mại chỉ từ chưa đến 5 tỷ USD năm 1986 tăng lên 786,29 tỷ USD năm 2024, tăng 15,4% so với năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 405,5 tỷ USD (tăng 14,3%) và nhập khẩu đạt 380,7 tỷ USD (tăng 16,7%); cán cân thương mại hàng hóa ghi nhận xuất siêu 24,77 tỷ USD. Việt Nam nằm trong Top 20 nền kinh tế thương mại lớn nhất thế giới. Năm 2024, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam đạt gần 38,23 tỷ USD, thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới; vốn FDI thực hiện đạt 25,35 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực khi công nghiệp chế biến - chế tạo phát triển mạnh nhờ FDI, công nghệ, thị trường. Vị thế, uy tín trên trường quốc tế của Việt Nam ngày càng nâng cao. Việt Nam được đánh giá là nền kinh tế năng động, điểm đến đầu tư hấp dẫn trong khu vực. Việc kết hợp nội lực và ngoại lực từ hội nhập quốc tế và đầu tư nước ngoài giúp Việt Nam có thêm nguồn lực, sức mạnh để thực hiện ngày càng tốt hơn mục tiêu “dân giàu”.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện mục tiêu “dân giàu” qua gần 40 năm đổi mới ở Việt Nam cũng còn một số hạn chế cả về nhận thức lý luận và thực hiện trong thực tiễn.
Về nhận thức lý luận, nội hàm của khái niệm dân giàu còn chưa được làm rõ, nhiều vấn đề chậm được tổng kết đúc rút để định hướng thực hiện toàn diện trong thực tiễn, như về đảng viên làm kinh tế tư nhân, vai trò kinh tế tư nhân, tiêu chí đánh giá dân giàu, phân tầng xã hội trong bối cảnh mới gắn với tầng lớp trung lưu lớp dưới, lớp trên, tầng lớp giàu có, còn nặng về giảm nghèo mà thiếu định hướng làm giàu toàn dân, giàu có còn nặng về vật chất, chưa đề cao giàu có về tinh thần, văn hóa, trí tuệ, đạo đức, môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội...; thiếu triết lý “dân giàu bao trùm”, giàu toàn dân. Ngoài ra là những vấn đề lý luận khác, như: Dân giàu trong mối quan hệ với các thành tố tiểu mục tiêu trong hệ mục tiêu tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; sự cần thiết điều chỉnh, bổ sung mục tiêu dân giàu và tổng thể hệ mục tiêu tổng quát trong kỷ nguyên mới. Việc nghiên cứu, bổ sung các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, phân tách hệ mục tiêu tổng quát với các đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa; nghiên cứu bổ sung các phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có phương thức, phương hướng thực hiện mục tiêu dân giàu...
Việc thực hiện mục tiêu dân giàu còn một số hạn chế. Những thành tựu trong gần 40 năm đổi mới đã đem lại niềm tin và cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho người dân, khẳng định tính ưu việt của chế độ ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế vẫn tồn tại nhiều hạn chế trong thực hiện mục tiêu dân giàu, như dân giàu còn thiên về yếu tố kinh tế, chưa có sự cân bằng, hài hòa hóa với đời sống tinh thần, văn hóa, môi trường…; còn có sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc và ngày càng nới rộng khoảng cách, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, phát triển chưa đồng đều giữa thành thị - nông thôn, vùng miền; tình trạng thiếu việc làm, di dân tự phát, trong khi dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng yêu cầu đa dạng của người dân, có mặt còn bất cập; đời sống văn hóa có những biểu hiện tiêu cực, xuống cấp, các tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp, bảo đảm an toàn giao thông, an toàn thực phẩm còn một số hạn chế; môi trường ở nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng...
Nguyên nhân của thực trang trên là do chất lượng tăng trưởng chưa đồng đều; tốc độ tăng trưởng GDP cao nhưng phân phối lợi ích vẫn còn hiện tượng chưa thật sự công bằng, nhiều lao động thu nhập thấp khó cải thiện đời sống. Hiện tượng trục lợi, làm giàu bất chính tinh vi của một số ít cá nhân gây nhức nhối xã hội. Năng suất lao động và giá trị gia tăng trong nhiều ngành vẫn thấp. Nhiều lao động làm trong khu vực phi chính thức (khoảng 55% tổng lao động, 2023) không có bảo hiểm xã hội, thu nhập bấp bênh. Nguy cơ thất nghiệp, thiếu việc làm ở thanh niên, lao động nông thôn, lao động bị ảnh hưởng bởi tự động hóa và chuyển đổi xanh. Mức độ bao phủ tuy rộng nhưng chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, phúc lợi ở nông thôn, vùng sâu xa còn hạn chế. Chính sách hỗ trợ giảm nghèo còn dàn trải, chưa khuyến khích được tự lực vươn lên. Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh tạo áp lực về việc làm, lương hưu, chăm sóc y tế, dẫn đến nguy cơ giảm tốc độ tăng trưởng thu nhập khi lực lượng lao động trong tương lai thu hẹp. Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế, đặc biệt là người nghèo và nông dân. Ô nhiễm môi trường vẫn là một vấn đề nghiêm trọng.
Thể chế để khuyến khích và thúc đẩy nhân dân làm giàu vẫn còn không ít rào cản, bất cập; hiện tượng vi phạm pháp luật, chà đạp lên lợi ích cộng đồng để làm giàu bất chính, bất chấp thủ đoạn vẫn diễn ra. Năng lực và trình độ quản lý phát triển xã hội còn nhiều hạn chế, dẫn đến một số lĩnh vực, vấn đề xã hội chưa bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, an ninh, an toàn con người, xã hội chưa thực sự bảo đảm...
Ở tầm vĩ mô, nội lực và chiều sâu của nền kinh tế vẫn còn những hạn chế, công nghệ còn phụ thuộc vào nước ngoài, chưa nắm, làm chủ được các công nghệ lõi; nhiều động lực tăng trưởng truyền thông của nền kinh tế suy giảm, những động lực tăng trưởng mới chưa khẳng định được sức sống. Việt Nam chưa tạo được những giai đoạn phát triển bứt tốc để có thể thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”…
-----------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 13, tr. 438
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và những yêu cầu lịch sử  (03/01/2025)
Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam  (15/12/2024)
Xây dựng xã hội văn minh từ thực tiễn một số nước và kinh nghiệm tham chiếu cho Việt Nam  (30/11/2024)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Phụ nữ Việt Nam trong nền kinh tế số
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm