TCCS - Việc phân tích thông điệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên báo chí dưới góc độ quản lý mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều này xuất phát từ những luận điểm nền tảng về vai trò định hướng của báo chí và những yêu cầu cấp thiết của thực tiễn thông tin trong bối cảnh hiện nay.

Vai trò của báo chí trong tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Chủ quyền biển, đảo là một phần lãnh thổ thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình Biển Đông có những diễn biến phức tạp, việc bảo vệ và khẳng định chủ quyền quốc gia trên vùng lãnh thổ đặc biệt này trở nên cấp thiết. Là kênh thông tin chủ lực, báo chí đóng vai trò then chốt trong việc truyền tải mạnh mẽ thông điệp về bảo vệ chủ quyền biển, đảo đến đông đảo công chúng trong nước và quốc tế, góp phần định hướng dư luận, củng cố ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Về mặt lý luận, quản lý báo chí theo nghĩa rộng, bao gồm định hướng thông tin, xây dựng chiến lược truyền thông và bảo đảm tác động hiệu quả đến dư luận. Các nhà lý luận báo chí truyền thông đã chỉ ra vai trò quan trọng của báo chí trong việc xây dựng nhận thức, hình thành thái độ và định hướng hành vi của công chúng, đặc biệt đối với các vấn đề chủ quyền quốc gia. Với khả năng tiếp cận công chúng rộng rãi và sức mạnh kiến tạo dư luận, báo chí thể hiện rõ tính định hướng thông tin. Báo chí không chỉ phản ánh mà còn định hình nhận thức về tầm quan trọng của các vấn đề. Trong vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo, quản lý thông tin giúp báo chí tập trung truyền tải thông điệp chính thống, củng cố niềm tin và ý chí bảo vệ chủ quyền của người dân.

Trong bối cảnh chủ quyền biển, đảo đối diện với nhiều thách thức, báo chí truyền thông đóng vai trò là “mặt trận tư tưởng” quan trọng, vũ khí sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, phản ánh đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân, tăng cường đoàn kết và bảo vệ Tổ quốc. Thông tin về chủ quyền biển, đảo đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối và thận trọng cao, mọi sai sót có thể gây ra nhiều hệ lụy.

Về mặt thực tiễn, trước những diễn biến phức tạp của tình hình Biển Đông, xuất hiện nhiều thông tin sai lệch, thậm chí xuyên tạc chủ quyền Việt Nam, công tác quản lý báo chí đóng vai trò quan trọng để ngăn chặn nguy cơ lan truyền thông tin bất lợi. Các thế lực thù địch lợi dụng các phương tiện truyền thông xã hội để xuyên tạc lịch sử, phủ nhận chủ quyền và gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Do đó, tăng cường công tác quản lý báo chí sẽ giúp các cơ quan báo chí truyền tải thông điệp thống nhất, nhất quán về vấn đề chủ quyền biển, đảo, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong tuyên truyền, nâng cao hiệu quả truyền thông.

Song song đó, chất lượng thông tin đối ngoại về chủ quyền biển, đảo là yếu tố quan trọng. Các tác phẩm báo chí cần được quản lý chặt chẽ về nội dung, hình thức để truyền tải hiệu quả hình ảnh một Việt Nam yêu chuộng hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, đồng thời kiên quyết bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc đến cộng đồng trong nước và quốc tế. Các tác phẩm đoạt Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại thường là minh chứng cho cách thức truyền tải thông điệp này một cách thành công.

Việc nghiên cứu các tác phẩm đoạt Giải thưởng sẽ mang đến những hiểu biết sâu sắc về phương pháp truyền tải thông điệp hiệu quả, đồng thời chỉ ra những điểm cần cải thiện trong quản lý báo chí về chủ đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong thời gian tới.

“Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại” trong truyền tải thông điệp về bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại (thường gọi là Giải Thông tin đối ngoại) là sự kiện thường niên tầm quốc gia được khởi xướng từ năm 2014. Giải thưởng do Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại chỉ đạo, với Ban Tuyên giáo Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương) là cơ quan thường trực, chủ trì tổ chức cùng sự phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị khác. Mục đích của Giải thưởng là tôn vinh những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực thông tin đối ngoại, đồng thời tạo động lực thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào công tác này. Qua đó, Giải thưởng góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, đưa thế giới đến gần hơn với Việt Nam và giúp công chúng nhìn nhận, lan tỏa những kết quả, câu chuyện hấp dẫn về đất nước trên mọi lĩnh vực.

Trải qua hành trình 10 năm hình thành và phát triển, Giải Thông tin đối ngoại đã trở thành diễn đàn sáng tạo, nơi những người yêu mến Việt Nam cùng nhau lan tỏa hình ảnh, giá trị và trí tuệ Việt Nam ra thế giới, khẳng định vị thế là giải thưởng quốc gia uy tín, đóng góp thiết thực vào thành công của công tác thông tin đối ngoại qua từng giai đoạn. Sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng tác phẩm, sản phẩm tham dự, đạt giải qua các kỳ đã minh chứng cho uy tín và vị thế ngày càng cao của Giải thưởng. Bên cạnh đó, Giải thưởng đã tạo ra phong trào mạnh mẽ, thúc đẩy những người làm công tác thông tin đối ngoại và các nhà báo không ngừng sáng tạo, mang đến những tác phẩm, sản phẩm đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung, góp phần khắc họa một Việt Nam năng động, đổi mới và giàu tiềm năng.

Sau 10 lần tổ chức Giải thưởng, có 77 tác phẩm đạt giải mang thông điệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tổng số 963 tác phẩm đạt giải, (chiếm khoảng 8%); trong tổng số 88 giải nhất đã trao có 9 tác phẩm đạt giải nhất (chiếm 10,23%); có 17 tác phẩm trong tổng số 185 giải nhì (chiếm 9,19%); có 26 tác phẩm trong tổng số 255 giải ba (chiếm 10,2%); có 25 tác phẩm trong tổng số 434 giải khuyến khích (chiếm 5,76%).

Hình 1: Tỷ lệ tác phẩm đạt Giải mang thông điệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo_Nguồn: Nghiên cứu của Hoàng Thanh Dương

Điều này phần nào cho thấy sự quan tâm sâu sắc của các cơ quan báo chí, nhà báo và công chúng đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Sự quan tâm này không chỉ phản ánh tầm quan trọng đặc biệt của tình hình Biển Đông đối với an ninh quốc gia mà còn đối với sự phát triển bền vững của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Hình 2: Tỷ lệ các giải mang thông điệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo_Nguồn: Nghiên cứu của Hoàng Thanh Dương

Một số thành công của Giải Thông tin đối ngoại qua 10 lần tổ chức:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức và hiểu biết của công chúng: Các tác phẩm đã truyền tải hiệu quả thông tin chính xác, khách quan về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, giúp công chúng hiểu rõ cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn của vấn đề. Nhờ sự đa dạng trong hình thức thể hiện, như báo in, báo điện tử, truyền hình, phát thanh, ảnh báo chí…, thông tin được lan tỏa một cách sinh động, dễ tiếp cận và phù hợp với nhiều đối tượng khác nhau.

Đặc biệt, việc sử dụng các ngôn ngữ khác nhau (tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha...) đã giúp thông tin được lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng quốc tế. Tiêu biểu là các tác phẩm: “Bản tin nhạc rap Biển Đông đa ngữ tạo sức mạnh lan tỏa đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo” (Giải nhất, lần thứ I) đã sử dụng hình thức nghệ thuật hiện đại, đa ngôn ngữ để tiếp cận được với nhiều tầng lớp công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Loạt bài “Tư liệu, thư tịch của Trung Quốc trực tiếp và gián tiếp thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam” (Giải khuyến khích, lần thứ IV) đã cung cấp những bằng chứng lịch sử quan trọng, giúp công chúng hiểu rõ hơn về lập trường của Việt Nam.

Thứ hai, tạo dựng hình ảnh tích cực về Việt Nam: Các tác phẩm đã thành công khắc họa một Việt Nam yêu chuộng hòa bình, thượng tôn luật pháp quốc tế, đồng thời kiên định bảo vệ chủ quyền quốc gia. Bằng cách phản ánh chân thực cuộc sống của quân và dân trên các vùng biển, đảo, các tác phẩm đã làm nổi bật tinh thần kiên cường, bất khuất của người Việt Nam. Đồng thời, những tác phẩm này còn góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam là quốc gia có trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình và ổn định khu vực. Tiêu biểu có thể kể đến: Phóng sự truyền hình “Lý Sơn: Nơi đầu sóng ngọn gió” (Giải nhì, lần thứ I) đã khắc họa chân thực cuộc sống của người dân trên đảo Lý Sơn, qua đó thể hiện tinh thần kiên cường và ý chí quyết tâm người dân trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo; Tác phẩm “Ốc đảo hòa bình” (Giải ba, lần thứ VIII) giúp bạn bè quốc tế thấy một hình ảnh thanh bình tại các vùng biển, đảo của Việt Nam.

Thứ ba, góp phần vào cuộc đấu tranh pháp lý và ngoại giao: Các tác phẩm đã cung cấp thông tin, tư liệu quý giá, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh pháp lý và ngoại giao của Việt Nam về vấn đề Biển Đông. Bằng việc phân tích sâu sắc các diễn biến quốc tế, những tác phẩm này giúp các nhà hoạch định chính sách và dư luận quốc tế hiểu rõ hơn lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Việc sử dụng các ngôn ngữ quốc tế đã giúp Việt Nam truyền tải thông điệp của mình đến nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Tiêu biểu là loạt bài “ASEAN Centrality: South China Sea dispute can only have a fair solution by keeping the South - East Asian grouping at the heart” (Giải nhất, lần thứ VI) đã phân tích vai trò của ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, qua đó góp phần vào cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam. Tác phẩm “Chiến lược vùng xám trên Biển Đông và các thách thức với khung pháp lý về sử dụng vũ lực trên biển” (Giải ba, lần thứ VII) giúp bạn bè quốc tế có cái nhìn rõ hơn về tình hình Biển Đông.

Thứ tư, góp phần vào sự phát triển của báo chí Việt Nam: Giải thưởng thông tin đối ngoại đã kiến tạo một sân chơi chuyên nghiệp, bổ ích cho các nhà báo và cơ quan báo chí, qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của báo chí Việt Nam. Không chỉ là nơi tôn vinh những tác phẩm xuất sắc, Giải thưởng còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự lớn mạnh của lĩnh vực thông tin đối ngoại, đặc biệt trong việc truyền tải các vấn đề chủ quyền biển, đảo.

Sự đóng góp này được thể hiện qua các khía cạnh, như giúp nâng cao chất lượng tác phẩm, nâng cao chất lượng nội dung và đa dạng hóa hình thức thể hiện. Tiêu biểu là loạt bài “Biển Đông giữa vòng xoáy cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt” (Giải nhất, lần thứ VI); loạt 4 bài “Vấn đề pháp lý và bài toán chọn bên ở Biển Đông” (Giải nhất, lần thứ VII)… Các tác phẩm thể hiện sự đầu tư kỹ lưỡng về nội dung, phân tích sâu sắc các diễn biến phức tạp trên Biển Đông, cung cấp cho công chúng những thông tin chính xác, khách quan. Đây là một số ví dụ điển hình cho việc nâng cao chất lượng báo chí thông qua việc nghiên cứu, phân tích chuyên sâu các vấn đề quốc tế.

Ngoài ra, việc khuyến khích sự sáng tạo cũng là một đóng góp rất quan trọng, các tác phẩm đoạt Giải sử dụng nhiều hình thức thể hiện đa dạng, sáng tạo như tác phẩm “Bản tin nhạc rap Biển Đông đa ngữ” (Giải nhất, lần thứ I) đã tiếp cận giới trẻ bằng ngôn ngữ âm nhạc hiện đại, đồng thời truyền tải thông điệp đến nhiều quốc gia trên thế giới. Chương trình cầu truyền hình “Khát vọng Đại dương xanh” (Giải nhì, lần thứ VIII) tạo sự kết nối trực tiếp giữa đất liền và biển đảo, tăng cường sự quan tâm của công chúng. Giải thưởng cũng giúp bồi dưỡng đội ngũ nhà báo chuyên nghiệp, có năng lực và bản lĩnh, đáp ứng yêu cầu của công tác thông tin đối ngoại cũng như vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Việc tham gia và đoạt Giải thưởng là động lực để các nhà báo không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ.

Một số hạn chế

Mặc dù Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại đã đạt được nhiều thành công trong việc truyền tải thông điệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, nhưng vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục.

Thứ nhất, tính lan tỏa chưa đồng đều. Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại chưa có sự sự lan tỏa đồng đều, đặc biệt ở các địa phương và lĩnh vực chuyên sâu. Trong 10 lần tổ chức, chỉ có 17/77 tác phẩm (chiếm 22%) về bảo vệ chủ quyền biển, đảo đạt giải thuộc về 9 địa phương, trong đó Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh là hai địa phương không giáp biển, nhưng có nhiều tác phẩm đạt giải về chủ đề này.

Hình 3: Tỷ lệ tác phẩm của cơ quan báo chí địa phương đạt giải_Nguồn: Nghiên cứu của Hoàng Thanh Dương

Như vậy, số lượng tác phẩm của các cơ quan báo chí địa phương viết về chủ đề này còn khá khiêm tốn so với các cơ quan báo chí Trung ương, đây là một hạn chế cần được cải thiện trong thời gian tới.

Thứ hai, hạn chế về tính đa dạng và sáng tạo. Trong khi một số tác phẩm đã khai thác thành công các hình thức truyền thông hiện đại, vẫn còn những tác phẩm duy trì lối tiếp cận truyền thống, thiếu sự đổi mới. Điều này làm giảm khả năng thu hút, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ và công chúng quốc tế. Sự lặp lại về nội dung và cách thức thể hiện có thể làm giảm tính hấp dẫn và hiệu quả truyền thông. Một số bài viết trên báo in, dù có nội dung sâu sắc, nhưng cách trình bày khô khan, thiếu hình ảnh minh họa, khiến người đọc khó tiếp cận. Các chương trình truyền hình, phát thanh đôi khi thiếu sự đầu tư vào hiệu ứng hình ảnh, âm thanh, làm giảm sức tác động đến người xem, người nghe.

Thứ ba, thiếu tâm huyết và trải nghiệm trực quan sinh động. Khi viết về chủ đề biển đảo, một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt đối với nhận thức của công chúng và chất lượng thông tin, cần đặc biệt quan tâm đến sự đầu tư và chiều sâu tư duy của người viết.

Thứ tư, hạn chế về khả năng tiếp cận công chúng quốc tế. Trong tổng số 77 tác phẩm mang thông điệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo đạt Giải thưởng qua 10 lần tổ chức, có 17 tác phẩm đạt giải có sử dụng tiếng nước ngoài (chiếm 22%), trong đó chỉ có 5 tác phẩm của tác giả người nước ngoài đạt giải (chiếm 6%). Đây là một tỷ lệ khá khiêm tốn, cần được cải thiện.

Hình 4: Tỷ lệ tác phẩm tiếng nước ngoài, của tác giả nước ngoài đạt giải_Nguồn: Nghiên cứu của Hoàng Thanh Dương

Để các tác phẩm thông tin đối ngoại về chủ quyền biển, đảo tiếp cận hiệu quả công chúng quốc tế, việc dịch thuật sang các ngôn ngữ quốc tế rất quan trọng. Tuy nhiên, chất lượng bản dịch cần được đặc biệt chú trọng, bảo đảm tính chính xác về nội dung và sự tự nhiên trong diễn đạt. Bên cạnh đó, việc thấu hiểu sâu sắc văn hóa và cách thức tiếp nhận thông tin của từng đối tượng công chúng quốc tế là yếu tố then chốt để tạo ra những sản phẩm truyền thông phù hợp, có sức lan tỏa mạnh mẽ.

Thứ năm, hạn chế về tính chuyên sâu và phân tích. Các tác phẩm cần đi sâu vào phân tích các khía cạnh pháp lý, lịch sử, chính trị, kinh tế của vấn đề Biển Đông để cung cấp cho công chúng cái nhìn toàn diện. Sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành là cần thiết để đảm bảo tính chuyên môn và khách quan của thông tin…

Khuyến nghị một số giải pháp

Nhóm thứ nhất, giải pháp đối với việc xây dựng và tổ chức thông điệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở các cơ quan báo chí.

Xây dựng kế hoạch truyền thông chủ động và dài hạn: Mỗi cơ quan báo chí cần xây dựng kế hoạch truyền thông riêng về thông điệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bám sát Chiến lược thông tin quốc gia nhưng có sự điều chỉnh phù hợp với đặc thù của mình (tôn chỉ, mục đích, đối tượng độc giả/khán giả). Xác định các tuyến nội dung trọng tâm, các sự kiện cần tập trung phản ánh trong quý/năm. Phân công cụ thể cho các ban, bộ phận, phóng viên theo dõi chuyên sâu chủ đề này. Lập kế hoạch sản xuất các loại hình nội dung đa dạng (tin tức, bài phân tích, phóng sự, video, infographic, podcast...). Xây dựng lịch trình đăng tải, phát sóng nội dung một cách thường xuyên và có hệ thống.

Nâng cao chất lượng nội dung và tính chuyên sâu: Đầu tư vào chất lượng nội dung, tăng cường tính chuyên sâu và phân tích trong các tác phẩm. Cử nhà báo, phóng viên, biên tập viên tham gia các khóa đào tạo chuyên sâu về luật pháp quốc tế, lịch sử, địa lý, chính trị biển, đảo. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, mời chuyên gia đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm về biển, đảo cho đội ngũ làm báo, người làm công tác thông tin đối ngoại. Thiết lập mạng lưới cộng tác viên là các chuyên gia uy tín để có các bài viết, phỏng vấn chất lượng cao. Chủ động liên hệ, phối hợp với các chuyên gia đầu ngành (luật sư quốc tế, nhà sử học, nhà kinh tế biển...) để có được thông tin chính xác, phân tích chuyên sâu và tăng tính thuyết phục cho tác phẩm. Tạo điều kiện cho phóng viên có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu sâu về các vấn đề liên quan trước khi thực hiện tác phẩm. Đồng thời tạo điều kiện và khuyến khích nhà báo, phóng viên, biên tập viên đầu tư thời gian, công sức để nghiên cứu sâu về các khía cạnh pháp lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, môi trường liên quan đến biển, đảo trước khi thực hiện tác phẩm. Ban lãnh đạo cơ quan báo chí cần tạo môi trường làm việc khuyến khích sự tìm tòi, đào sâu suy nghĩ của nhà báo, phóng viên về chủ đề biển, đảo, giảm bớt áp lực về số lượng tin bài để tập trung vào chất lượng.

Đa dạng hóa hình thức thể hiện và nền tảng truyền thông: Tận dụng tối đa các loại hình báo chí và nền tảng truyền thông khác nhau để tiếp cận đa dạng đối tượng công chúng. Ưu tiên sản xuất các sản phẩm đa phương tiện (video, infographic, podcast, motion graphic...) để tăng tính hấp dẫn và dễ tiếp cận. Xây dựng và phát triển các kênh thông tin trên mạng xã hội, tạo ra nội dung phù hợp với từng nền tảng và tăng cường tương tác với người dùng. Sử dụng tối đa sức mạnh của các nền tảng trực tuyến, mạng xã hội để lan tỏa thông điệp, tương tác và mở rộng phạm vi tiếp cận. Khuyến khích các hình thức thể hiện sáng tạo, độc đáo, thu hút sự chú ý của giới trẻ và công chúng quốc tế (ví dụ: long-form, interactive storytelling, truyền thông tương tác, thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR)…).

Tăng cường khả năng tiếp cận công chúng quốc tế: Chủ động sản xuất nội dung hướng đến công chúng quốc tế và sử dụng các kênh truyền thông quốc tế. Các cơ quan báo chí cần tăng cường đầu tư, sản xuất các tác phẩm chất lượng cao bằng các ngôn ngữ quốc tế phổ biến (tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp...), chú trọng chất lượng dịch thuật, bảo đảm truyền tải đúng sắc thái văn hóa và thông điệp. Chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác với các cơ quan báo chí, hãng thông tấn quốc tế để trao đổi nội dung hoặc đồng sản xuất chương trình về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Hợp tác với các hãng thông tấn, báo chí quốc tế, như Reuters, Associated Press, AFP, CNN, BBC, Mediacorp, ITAR-TASS... để đăng tải, phát sóng các tác phẩm. Tìm hiểu về đặc điểm văn hóa, thói quen tiếp nhận thông tin của từng đối tượng công chúng quốc tế để tạo ra các sản phẩm báo chí truyền thông phù hợp, hấp dẫn. Đăng tải, chia sẻ nội dung trên các mạng xã hội (Facebook, YouTube, TikTok, Twitter...), các nền tảng thông tin quốc tế. Chủ động theo dõi và có phản ứng kịp thời, chính xác đối với các thông tin sai lệch về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên các kênh truyền thông quốc tế.

Nâng cao năng lực đội ngũ làm báo: Đầu tư vào đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng cho đội ngũ làm báo. Tổ chức các khóa học, hội thảo về luật pháp quốc tế, lịch sử, địa lý, chính trị biển, đảo, kỹ năng phân tích, viết bài chuyên sâu, sản xuất nội dung đa phương tiện. Tạo điều kiện về kinh phí, thời gian và các hỗ trợ cần thiết cho đội ngũ làm báo có cơ hội đến các vùng biển, đảo, đặc biệt là các khu vực như Trường Sa, để có những trải nghiệm trực quan, sinh động, mang hơi thở cuộc sống vào tác phẩm. Đồng thời tích cực tham gia các diễn đàn, hội thảo trong nước và quốc tế về biển, đảo, về thông tin đối ngoại để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm cơ hội hợp tác. Hỗ trợ nhà báo, phóng viên, biên tập viên nâng cao trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh và tiếng các nước liên quan đến Biển Đông. Tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm giữa các nhà báo, phóng viên, biên tập viên có kinh nghiệm viết về chủ đề này.

Tăng cường phối hợp nội bộ và chia sẻ thông tin: Xây dựng quy trình phối hợp hiệu quả giữa các bộ phận trong cơ quan. Tổ chức giao ban thường xuyên để cập nhật thông tin, định hướng tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo. Xây dựng cơ sở dữ liệu chung về thông tin, tài liệu tham khảo liên quan đến chủ đề biển, đảo để các nhà báo, phóng viên, biên tập viên có thể dễ dàng tiếp cận. Chia sẻ thông tin, kinh nghiệm với đồng nghiệp trong cơ quan và các cơ quan báo chí khác về việc khai thác đề tài biển, đảo. Khuyến khích sự hợp tác giữa các ban, bộ phận để sản xuất các sản phẩm truyền thông phức hợp, đa dạng.

Nhóm thứ hai, giải pháp nâng cao năng lực, kiến thức của nhà báo, phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên viết về chủ đề này.

Tự bồi dưỡng và nghiên cứu chuyên sâu: Để truyền tải thông tin chính xác và chuyên sâu về chủ quyền biển, đảo, cần chủ động nghiên cứu sâu về lịch sử, pháp lý quốc tế (UNCLOS), tình hình kinh tế, an ninh, môi trường biển, đảo Việt Nam, cũng như bối cảnh địa - chính trị khu vực và quốc tế liên quan đến Biển Đông. Việc này bao gồm tự trang bị kiến thức nền tảng vững chắc thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, các công trình nghiên cứu uy tín trong và ngoài nước, cùng việc chủ động theo dõi các trang web chính thức, tổ chức nghiên cứu và chuyên gia uy tín. Cần so sánh, đối chiếu thông tin từ nhiều nguồn để có cái nhìn khách quan, toàn diện, đồng thời ghi chú, tóm tắt kiến thức, xây dựng cơ sở dữ liệu cá nhân. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu văn hóa, thói quen tiếp nhận thông tin của công chúng quốc tế giúp tạo ra các sản phẩm truyền thông phù hợp và hiệu quả. Cuối cùng, việc trau dồi kỹ năng truyền thông hiện đại, học hỏi và nâng cao khả năng sử dụng các công cụ, nền tảng truyền thông đa dạng (video, podcast, infographic, mạng xã hội, tương tác, thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR)...) là yếu tố quan trọng để tiếp cận hiệu quả nhiều đối tượng công chúng, đặc biệt là giới trẻ và quốc tế.

Tham gia các chương trình đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn: Cần chủ động đăng ký và tích cực tham gia các khóa đào tạo, tập huấn, hội thảo, tọa đàm do các cơ quan quản lý báo chí, trường đại học, viện nghiên cứu, Hội Nhà báo Việt Nam và các tổ chức liên quan tổ chức, tập trung vào kiến thức biển, đảo, kỹ năng thông tin đối ngoại và truyền thông đa phương tiện. Đồng thời, cần tham gia các khóa học về luật pháp quốc tế, lịch sử chủ quyền, kỹ năng phân tích, viết về vấn đề phức tạp, phỏng vấn chuyên gia, sản xuất nội dung đa phương tiện và trau dồi ngoại ngữ (tiếng Anh và các ngôn ngữ khác). Việc tham dự các sự kiện có chuyên gia, học giả hàng đầu về Biển Đông cũng rất quan trọng để cập nhật kiến thức và trao đổi quan điểm.

Tăng cường trải nghiệm thực tế và mở rộng góc nhìn: Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo, cần tạo điều kiện và khuyến khích nhà báo, phóng viên, biên tập viên tăng cường đi thực tế tại các vùng biển, đảo, gặp gỡ lực lượng chức năng, người dân địa phương và chuyên gia. Thay vì lối mòn, hãy tìm kiếm góc độ tiếp cận mới lạ, khai thác những câu chuyện độc đáo, ít người biết đến. Đồng thời, cần đa dạng hóa nội dung, không chỉ tập trung khẳng định chủ quyền mà còn phản ánh các khía cạnh kinh tế, văn hóa, môi trường. Chủ động đề xuất các chuyến đi thực tế đến vùng biển, đảo xa xôi để có trải nghiệm chân thực, phỏng vấn đa dạng đối tượng liên quan (người dân, chiến sĩ, nhà nghiên cứu, luật sư...) và tham dự các hội thảo, diễn đàn quốc tế về Biển Đông để mở rộng thông tin và mạng lưới.

Xây dựng mạng lưới chuyên gia và cộng tác viên chất lượng: Chủ động thiết lập và duy trì quan hệ với các chuyên gia, nhà nghiên cứu, luật sư quốc tế uy tín về Biển Đông. Cần xác định, liên hệ với những chuyên gia có kiến thức chuyên sâu, mời họ viết bài, tham gia phỏng vấn, thẩm định thông tin và duy trì liên lạc thường xuyên để cập nhật kiến thức, tham khảo ý kiến khi cần.

Chủ động học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm: Để nâng cao kiến thức và kỹ năng về chủ đề biển, đảo, cần chủ động học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp trong và ngoài cơ quan thông qua các diễn đàn, nhóm trao đổi nghiệp vụ và mạng xã hội. Đồng thời, tích cực tham gia các buổi trao đổi tại cơ quan để chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm cá nhân và tìm hiểu cách tiếp cận, khai thác thông tin, xử lý vấn đề từ những người có kinh nghiệm.

Nhóm thứ ba, giải pháp phát huy vai trò của Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại.

Nâng cao uy tín và giá trị Giải thưởng: Để nâng cao hiệu quả và tầm ảnh hưởng, Giải Thông tin đối ngoại cần được truyền thông, quảng bá rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước, làm nổi bật ý nghĩa, tầm quan trọng và đóng góp của Giải thưởng vào công tác thông tin đối ngoại quốc gia. Cần tổ chức các sự kiện, hội thảo giới thiệu về Giải thưởng trước và sau mỗi kỳ trao giải, xây dựng website chuyên nghiệp, đa ngôn ngữ, cung cấp đầy đủ thông tin về quy chế, tiêu chí và danh sách đoạt giải qua các năm. Việc mời các đại sứ, tổ chức quốc tế, chuyên gia uy tín tham gia các hoạt động của Giải thưởng và công bố rộng rãi thông tin về các tác phẩm đoạt giải trên các kênh truyền thông đối ngoại chính thức của Việt Nam cũng là những giải pháp quan trọng.

Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu Giải thưởng và tiêu chí đánh giá: Rà soát, điều chỉnh cơ cấu giải thưởng và tiêu chí đánh giá để khuyến khích các tác phẩm có chất lượng chuyên môn cao, tính sáng tạo, hiệu quả truyền thông quốc tế và đóng góp thiết thực vào việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Cân nhắc bổ sung các hạng mục Giải thưởng đặc biệt cho các tác phẩm xuất sắc về chủ đề biển, đảo, hoặc cho các tác phẩm có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ mới trong thông tin đối ngoại. Mời thêm các chuyên gia về luật pháp quốc tế, quan hệ quốc tế, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thông quốc tế tham gia Ban Giám khảo để tăng tính đa dạng chuyên môn.

Tăng cường tính quốc tế và thu hút tác phẩm nước ngoài: Chủ động mở rộng phạm vi tiếp cận, khuyến khích sự tham gia của các tác giả, nhà báo, cơ quan báo chí nước ngoài và các tác phẩm bằng tiếng nước ngoài viết về biển đảo Việt Nam. Thông qua các kênh ngoại giao, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức quốc tế để quảng bá về Giải thưởng. Hợp tác với các hãng thông tấn, báo chí quốc tế để thông tin về giải thưởng và khuyến khích tham gia. Cân nhắc thiết lập các hạng mục Giải thưởng riêng dành cho tác giả và tác phẩm nước ngoài (nếu phù hợp). Cung cấp thông tin về Giải thưởng bằng nhiều ngôn ngữ, có thể có hỗ trợ dịch thuật cho các tác phẩm dự thi bằng tiếng nước ngoài.

Phát huy vai trò định hướng và dẫn dắt: Giải thưởng không chỉ là sự kiện tôn vinh mà còn là diễn đàn để trao đổi, định hướng và nâng cao chất lượng công tác thông tin đối ngoại. Sau mỗi kỳ trao giải, tổ chức các hội thảo, tọa đàm với sự tham gia của các tác giả đạt giải, chuyên gia, nhà quản lý để chia sẻ kinh nghiệm, thảo luận về các xu hướng và thách thức trong thông tin đối ngoại cũng như vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Nhân rộng các mô hình thông tin đối ngoại hiệu quả, đặc biệt là về chủ đề biển, đảo. Thông qua các thông báo, hướng dẫn trước mỗi kỳ Giải, gợi ý các chủ đề trọng tâm cần tập trung phản ánh.

Tăng cường tính bền vững và tác động sau Giải: Bảo đảm duy trì Giải thưởng được tổ chức thường niên, có sự đầu tư ổn định và tạo ra những tác động tích cực, lâu dài cho công tác thông tin đối ngoại. Tìm kiếm sự tài trợ từ các tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đến công tác thông tin đối ngoại. Tạo điều kiện để các tác phẩm đạt giải được quảng bá rộng rãi hơn trên các phương tiện truyền thông trong nước và quốc tế. Khuyến khích các cơ quan báo chí nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các tác phẩm đoạt giải để nâng cao chất lượng công tác thông tin. Tạo dựng cộng đồng những người làm công tác thông tin đối ngoại chất lượng cao thông qua Giải thưởng.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong tổ chức và quảng bá: Sử dụng hiệu quả các nền tảng công nghệ số để quản lý hồ sơ dự thi, tổ chức chấm giải trực tuyến (nếu phù hợp), quảng bá Giải thưởng và các tác phẩm đạt giải. Xây dựng nền tảng trực tuyến để tiếp nhận hồ sơ dự thi, quản lý dữ liệu và hỗ trợ quá trình chấm giải. Sử dụng mạng xã hội, video marketing… để quảng bá Giải thưởng và các tác phẩm đoạt giải. Cân nhắc tổ chức các sự kiện trao giải hoặc hội thảo trực tuyến để tăng cường khả năng tiếp cận và tương tác.

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp và giải quyết hiệu quả các vấn đề đặt ra từ góc độ quản lý báo chí sẽ giúp Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại ngày càng khẳng định vị thế, phát huy mạnh mẽ vai trò trong việc nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại của Việt Nam. Điều này góp phần xây dựng hệ thống thông điệp mạnh mẽ, hiệu quả về bảo vệ chủ quyền biển, đảo, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc./.