Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng tăng cường lãnh đạo để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng tỉnh sớm giàu, mạnh, văn minh

TRẦN ĐỨC QUẬN
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Lâm Đồng
19:42, ngày 20-11-2023

TCCS - Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của Đảng, được khẳng định rõ trong Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (Nghị quyết số 23-NQ/TW). Trong nhiều nhiệm kỳ qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Lâm Đồng luôn chú trọng, ra sức phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng tỉnh sớm giàu, mạnh, văn minh và bước đầu đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đại biểu xem triển lãm ảnh “Tây Nguyên xanh - hài hoà - bền vững" tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, của Bộ Chính trị về phát triển vùng Tây Nguyên ở tỉnh Lâm Đồng_Ảnh: TTXVN

Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng chú trọng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng tỉnh sớm giàu, mạnh, văn minh - một số kết quả thiết thực

Là tỉnh miền núi Nam Tây Nguyên, Lâm Đồng có diện tích 9.781,2km2. Dân số toàn tỉnh trên 1,3 triệu người, có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, 142 đơn vị hành chính cấp xã, với 47 dân tộc anh em. Đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm 25,7% dân số, có 16 tổ chức tôn giáo, 796.710 tín đồ các tôn giáo, chiếm 60% dân số toàn tỉnh. Những năm qua, cả hệ thống chính trị của tỉnh đã cụ thể hóa chủ trương của Đảng, thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách của Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc. Từ đó, nêu cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, phát huy mọi nguồn lực, tiềm năng, lợi thế để phát triển vươn lên.

Nhanh chóng triển khai Nghị quyết số 23-NQ/TW vào cuộc sống, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TU và Kế hoạch số 72-KH/TU để tổ chức thực hiện(1). Ngoài ra, các kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh luôn xác định “Dân là gốc”, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 tiếp tục xác định: “Phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân; củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, chính quyền; tăng cường đại đoàn kết toàn dân, xây dựng xã hội dân chủ, đồng thuận, tuân theo pháp luật, kỷ cương, đoàn kết, văn minh...”(2).

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương; các chương trình hành động, kế hoạch để thực hiện nghị quyết, chỉ thị về xây dựng giai cấp công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, trí thức, người cao tuổi, dân tộc, tôn giáo… Đồng thời, chỉ đạo cụ thể hóa, tổ chức thực hiện nhiều chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Qua triển khai các nghị quyết, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, nhận thức của hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc có nhiều chuyển biến tích cực, trở thành yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự đồng thuận trong nhân dân về thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của địa phương.

Những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương cùng với tinh thần đoàn kết, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng quê hương giàu mạnh đã đạt được nhiều thành tựu khá nổi bật. Kinh tế của tỉnh tăng trưởng khá, năm sau luôn cao hơn năm trước, quy mô và chất lượng nền kinh tế được nâng lên. Sản xuất nông nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng cao so với bình quân chung của cả nước; ngành công nghiệp, xây dựng và lĩnh vực thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển; kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh; lượng khách du lịch, nhất là khách quốc tế, khách lưu trú tăng khá. Năm 2022, khách qua lưu trú khoảng 7 triệu lượt, khách quốc tế 150 nghìn lượt. Năng suất lao động, GRDP bình quân đầu người tăng nhanh, cao hơn bình quân chung cả nước (GRDP bình quân đầu người năm 2022 đạt 75,3 triệu đồng/người, tăng gấp 20,3 lần so với năm 2002). Thu ngân sách nhà nước hằng năm đạt và vượt so với chỉ tiêu Nghị quyết. Trong đó, bình quân giai đoạn 2002 - 2005 đạt 823,47 tỷ đồng, giai đoạn 2006 - 2010 đạt 1.110,4 tỷ đồng (tăng 1,35 lần), giai đoạn 2011 - 2015 đạt 4.949 tỷ đồng (tăng 6 lần), giai đoạn 2016 - 2020 đạt 7.809 tỷ đồng (tăng 9,5 lần); năm 2022 đạt trên 13.000 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2022 đạt 27.365 tỷ đồng (gấp 19,2 lần so với năm 2002); tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 886,67 triệu USD; tỷ lệ lao động qua đào tạo 74%; tỷ lệ thất nghiệp dưới 1,2%; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 1,94%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn 5,65%. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh, phúc lợi xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên. Cuối năm 2022, toàn tỉnh có 109/111 xã (98,2%) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (40 xã đạt tiêu chí nông thôn mới nâng cao, 14 xã đạt tiêu chí nông thôn mới kiểu mẫu); 5/10 huyện được công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới; thành phố Đà Lạt và Bảo Lộc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; quốc phòng, an ninh được giữ vững, ổn định; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh.

Hệ thống chính trị ở cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng tổ chức cơ sở đảng được nâng cao, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đi vào cuộc sống, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, dân sinh, dân chủ ở cơ sở. Các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập trung hướng mạnh về cơ sở. Thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội được kiện toàn, củng cố; giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các phong trào thi đua yêu nước gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được triển khai sâu rộng, thường xuyên, nền nếp.

Đạt được kết quả nêu trên xuất phát từ việc Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng luôn xác định vai trò trung tâm đoàn kết trong Đảng bộ tỉnh, từ đó lan tỏa ra toàn hệ thống chính trị và toàn dân; xây dựng, củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và từng cán bộ, đảng viên. Phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, quản lý điều hành của chính quyền, công tác tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên, xây dựng vững chắc mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; tập trung phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giải quyết tốt quan hệ giữa các giai tầng xã hội, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội.

Một số bất cập, hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, quá trình phát huy sức mạnh đại đoàn kết của tỉnh Lâm Đồng cũng còn một số bất cập, hạn chế nhất định cần sớm khắc phục, đó là:

Vai trò của chính quyền trong thực hiện chính sách đại đoàn kết có nơi, có lúc chưa được phát huy đầy đủ; công tác dân vận chính quyền chưa đáp ứng với yêu cầu và sự kỳ vọng của nhân dân; cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở còn nhiều bất cập; vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức thiếu tinh thần trách nhiệm, gây phiền hà, khó khăn, nhũng nhiễu khi thực thi công vụ.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng và vai trò quản lý, điều hành của chính quyền cơ sở còn hạn chế, nhất là việc cụ thể hóa, tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng ở địa phương.

Công tác nắm bắt, phản ánh, phối hợp tham mưu, chỉ đạo, giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, dự báo diễn biến tình hình, nhất là những vấn đề bức xúc, phức tạp nổi cộm… có lúc, có nơi còn chậm, hiệu quả chưa cao; đời sống một bộ phận nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn; kết cấu hạ tầng một số địa phương còn thiếu và yếu.

Một số đối tượng lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để tuyên truyền, lôi kéo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc chưa được chính quyền giải quyết triệt để.

Một số bài học kinh nghiệm

Qua 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã đúc rút một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa sâu sắc trong việc thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn:

Một là, xác định rõ xây dựng, củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, quản lý, điều hành của chính quyền, công tác tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên, xây dựng vững chắc mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Hai là, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm an sinh, công bằng xã hội gắn với phát huy dân chủ, phát huy vai trò làm chủ thực sự của nhân dân trên mọi mặt của đời sống xã hội.

Ba là, có cơ chế, chính sách phù hợp phát huy vai trò của các giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội, củng cố vững chắc liên minh công - nông - trí. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, doanh nhân. Tạo sự đồng thuận xã hội vì mục tiêu chung xây dựng quê hương phát triển bền vững, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bốn là, phát huy vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên. Đồng thời, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, sâu sát, gần gũi quần chúng, cơ sở; quan tâm đến quyền lợi chính đáng của người dân, thực sự là “cầu nối” quan trọng giữa Đảng và nhân dân, góp phần củng cố, tăng cường lòng tin, sự gắn bó giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; thống nhất “Ý Đảng, lòng Dân”.

Năm là, nâng cao tinh thần cảnh giác, sự nhạy bén của cán bộ, đảng viên trong nhận diện và kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ngay từ cơ sở, địa bàn dân cư.

Diện mạo thành phố Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng) sau gần 40 năm đổi mới (tác giả: Nguyễn Minh Tân)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Một số nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện thời gian tới

Để thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc và Nghị quyết số 18-NQ/TU của Tỉnh ủy, Đảng bộ tỉnh tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách, quy định nhằm giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thực hiện tốt Quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và giải quyết kịp thời phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người dân, doanh nghiệp.

Thứ hai, phát huy sức mạnh đại đoàn kết trên cơ sở quan tâm đến mọi giai tầng trong xã hội. Quan tâm phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động đáp ứng với yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn. Gắn xây dựng giai cấp nông dân với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn văn minh. Huy động và phát huy mọi nguồn lực cùng với các nguồn lực khác để phát triển nền nông nghiệp bền vững, toàn diện và hiện đại. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao. Ưu tiên đầu tư môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Thiết lập môi trường thuận lợi cho doanh nhân cống hiến tài năng, kinh doanh, làm giàu chính đáng. Tạo điều kiện cho khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển sản xuất, kinh doanh. Khơi dậy động lực học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, tham gia các phong trào, cuộc vận động về khởi nghiệp, lập nghiệp, xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi trường… trong thanh niên. Phát huy vai trò của cựu chiến binh trong xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch.

Thứ ba, thực hiện tốt chính sách tôn giáo và pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của tôn giáo. Thực hiện quyền bình đẳng, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; xây dựng các tôn giáo gắn bó, đồng hành với dân tộc; thực hiện các phong trào thi đua yêu nước “Sống tốt đời đẹp đạo”. Chăm lo phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chống kỳ thị dân tộc; chủ động đấu tranh và kiên quyết xử lý nghiêm các đối tượng có âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng gắn bó sâu sát với cơ sở, vì quyền lợi chính đáng của nhân dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” theo các mô hình mới, xây dựng khu dân cư tiêu biểu, kiểu mẫu. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội cần làm tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội; tích cực bảo vệ quyền lợi của đoàn viên, hội viên; tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền.

Thứ năm, tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ trên tất cả lĩnh vực của đời sống, xã hội. Bảo đảm điều kiện để nhân dân tham gia ở các khâu của quá trình đưa ra quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ đó đề xuất sáng kiến, tham gia thực hiện và giám sát quá trình thực hiện. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xử lý nghiêm hành vi vi phạm quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đề ra mục tiêu đến năm 2025 phấn đấu đưa Lâm Đồng thành tỉnh khá của cả nước, đồng thời định hướng chiến lược đến năm 2030 là tỉnh khá toàn diện, tự cân đối ngân sách và có đóng góp cho Trung ương và đến năm 2045 trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng bộ, để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, một trong những yếu tố quan trọng nhất đó là tập hợp, phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, chung sức đồng lòng của toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp trong tỉnh quyết tâm phấn đấu vì mục tiêu chung, đưa Lâm Đồng phát triển nhanh và bền vững, xây dựng tỉnh nhà ngày càng giàu, mạnh, văn minh./.

------------------------

(1) Nghị quyết số 18-NQ/TU, ngày 28-5-2003, của Tỉnh ủy Lâm Đồng, “Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Kế hoạch số 72-KH/TU, ngày 3-3-2010, của Tỉnh ủy Lâm Đồng, “về thực hiện Kết luận số 57-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW”.
(2) Tỉnh ủy Lâm Đồng: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025, tr. 57