Kinh nghiệm công tác vận động ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở tỉnh Đắk Nông
TCCS - Công tác dân vận (CTDV) ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng. Trong bối cảnh các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để kích động, chống phá, lôi kéo đồng bào DTTS tham gia các hoạt động gây rối, làm mất ổn định chính trị, thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc, chống phá cách mạng Việt Nam, CTDV cần phải được quan tâm thường xuyên.

Đặc điểm vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông
Công tác dân vận ở vùng đồng bào DTTS trong tình hình mới có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một nội dung trong CTDV của Đảng nhằm tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Do đó, việc tăng cường công tác vận động đồng bào DTTS là nhiệm vụ cần thiết, góp phần thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”(1).
Hiện nay, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để kích động, chống phá, lôi kéo, dụ dỗ đồng bào DTTS tham gia các hoạt động gây rối, làm mất ổn định chính trị. Để góp phần ngăn chặn, Đảng bộ tỉnh Đắk Nông đặc biệt quan tâm CTDV nhằm củng cố niềm tin của đồng bào DTTS vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra.
Tỉnh Đắk Nông được thành lập ngày 1-1-2004 theo Nghị quyết số 22/2003/QH11, ngày 26-11-2003, của Quốc hội khoá XI, trên cơ sở chia tách một số huyện phía nam của tỉnh Đắk Lắk (cũ). Tỉnh Đắk Nông có diện tích tự nhiên hơn 650 nghìn héc-ta; với 7 huyện, 1 thành phố; 71 xã, phường, thị trấn; 713 thôn, bon, buôn, bản, tổ dân phố. Trong đó, có 7 xã biên giới thuộc 4 huyện giáp với tỉnh Mondulkiri của Vương quốc Campuchia; tổng chiều dài đường biên giới là 141,045km; có 2 xã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là xã An toàn khu (xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức và xã Nâm Nung, huyện Krông Nô)(2). Trên địa bàn tỉnh có 40 dân tộc cùng sinh sống, với 167.434 hộ, 691.506 người. Trong đó, đồng bào DTTS có 63.526 hộ, với 292.852 người, chiếm tỷ lệ 42,3% số dân toàn tỉnh. Có 3 DTTS tại chỗ (M-nông, Mạ, Ê-đê) với tổng số 15.848 hộ, 71.754 người, chiếm 10,05% dân số toàn tỉnh và chiếm 32,82% so với tổng số DTTS (Theo Quyết định số 90/QĐ-UBND, ngày 19-1-2023 của UBND tỉnh Đắk Nông).
Theo Quyết định số 861/QĐ-TTg, ngày 4-6-2021, của Thủ tướng Chính phủ, toàn tỉnh có 46 xã thuộc vùng DTTS. Trong đó, có 29 xã thuộc khu vực I, 5 xã khu vực II và 12 xã khu vực III; 347/713 thôn thuộc vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT, ngày 16-9-2021, của Ủy ban Dân tộc, toàn tỉnh có 143 thôn đặc biệt khó khăn. Trong đó: 103 thôn thuộc các xã khu vực III; 14 thôn thuộc xã khu vực II; 21 thôn thuộc xã khu vực I; 5 thôn tại các xã không thuộc diện phân định khu vực (ngoài 46 xã vùng DTTS)(3).
Năm 2023, tổng số hộ nghèo toàn tỉnh là 13.342 hộ, với 64.828 người, chiếm tỷ lệ 7,97% trên tổng số hộ toàn tỉnh. Trong đó, hộ nghèo đồng bào DTTS là 9.589 hộ, chiếm tỷ lệ 20,11% trên tổng số hộ DTTS. Hộ nghèo đồng bào DTTS tại chỗ là 3.892 hộ, chiếm tỷ lệ 24,56% trên tổng số hộ DTTS tại chỗ.
Toàn tỉnh có 03 tôn giáo chính là Công giáo, Tin Lành và Phật giáo, với khoảng trên 261.782 tín đồ, chiếm 39% dân số toàn tỉnh; có 152 cơ sở tôn giáo trực thuộc; 215 chức sắc; 185 nữ tu, tu sỹ; 891 chức việc, khoảng 377 tín đồ đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo (sinh hoạt tại gia)(4).
Thời gian qua, CTDV ở vùng đồng bào DTTS trong tỉnh đã có những đóng góp tích cực trong đoàn kết, tập hợp nhân dân các dân tộc trong tỉnh tham gia vào các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Công tác dân vận ở vùng đồng bào DTTS góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở tỉnh Đắk Nông
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các văn bản của Trung ương về CTDV được triển khai kịp thời.
Tỉnh ủy Đắk Nông đã tổ chức nghiêm túc công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các văn bản của Trung ương về CTDV, đặc biệt là Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 20-10-2015, của Ban Bí thư “Về tăng cường và đổi mới CTDV của Đảng ở vùng đồng bào DTTS”. Các hội nghị quán triệt được tổ chức sâu rộng đến cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, huyện và lãnh đạo các sở, ban, ngành, địa phương. Tỉnh ủy chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng tuyên truyền sâu sắc nội dung các văn bản tới đoàn viên, hội viên và nhân dân, xây dựng chương trình, kế hoạch phù hợp với đặc điểm từng địa bàn. Ban Dân vận Tỉnh ủy (nay là Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy) tăng cường phối hợp tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, tuyên truyền rộng rãi các văn bản liên quan đến CTDV trong vùng DTTS, qua đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị đối với CTDV, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thể chế hóa các văn bản của Đảng và thực hiện chính sách dân tộc có những đổi mới.
Tỉnh ủy Đắk Nông đã tập trung lãnh đạo và triển khai hiệu quả các văn bản của Trung ương về CTDV và chính sách dân tộc. Điển hình, việc thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư đã được tỉnh cụ thể hóa bằng Kế hoạch số 411/KH-UBND với 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành công văn chỉ đạo các sở, ngành, địa phương triển khai nghiêm túc, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, vai trò, nhiệm vụ của hệ thống chính trị đối với CTDV, đặc biệt là việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào DTTS.
Tỉnh ủy Đắk Nông triển khai các chương trình trọng tâm, như Chương trình số 18-CTr/TU về phát triển du lịch; Chương trình số 26-CTr/TU về nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho đồng bào DTTS và Nghị quyết số 11/2022/NQ-HĐND về giảm nghèo bền vững. Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành xây dựng và triển khai hiệu quả Chương trình nâng cao đời sống cho đồng bào DTTS, giai đoạn 2021 - 2025; Chương trình giảm nghèo bền vững; đặc biệt là Chương trình bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa phi vật thể của các dân tộc. Qua đó, tỉnh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng tâm về CTDV, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và ổn định phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Thứ ba, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc đã được quan tâm thực hiện.
Cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước các cấp ở vùng đồng bào DTTS tập trung đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Đặc biệt, tỉnh xác định một trong các nguồn lực quan trọng, chủ yếu để phát triển các địa bàn khó khăn, vùng đồng bào DTTS và miền núi là triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, trên cơ sở đó đã huy động cả hệ thống chính trị tích cực triển khai thực hiện. Cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh tích cực vận động nhân dân đổi mới tư duy, phát huy các tiềm năng, lợi thế, kết hợp vận dụng tốt các chính sách của Nhà nước để tạo đà và động lực cho đồng bào DTTS tích cực vươn lên, hăng hái thi đua lao động, sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế gia đình.
Ngân sách nhà nước giữ vai trò đẫn dắt, tạo động lực để huy động tối đa các nguồn lực xã hội thực hiện chương trình từ các tổ chức, cá nhân và người dân. Đồng thời, các đơn vị, địa phương chủ động xây dựng kế hoạch triển khai bằng kinh phí thực hiện theo phân cấp ngân sách; ủy ban nhân dân các huyện, thành phố đã chủ động bố trí ngân sách địa phương và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện các hoạt động tại địa phương theo quy định. Tổng nguồn vốn đã phân bổ thực hiện năm 2022 và 2023 là 761.180 triệu đồng. Kết quả đã thực hiện và giải ngân được: 156.063 triệu đồng(5).
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; Quyết định số 1973/QĐ-UBND, ngày 4-12-2018 của UBND tỉnh về việc phê duyệt đề án đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Ban Dân tộc tỉnh, bước đầu đã sắp xếp Ban Dân tộc tỉnh gồm 3 phòng chuyên môn (Văn phòng, Phòng Nghiệp vụ và Phòng Thanh tra), với tổng số 24 cán bộ, công chức và nhân viên hợp đồng, trong đó có 10 cán bộ, công chức DTTS. Cấp huyện có 8 phòng dân tộc.
Thứ tư, sự phối hợp thực hiện CTDV của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang ở vùng đồng bào DTTS ngày càng hiệu quả.
Các lực lượng đã tích cực phối hợp giải quyết những kiến nghị của nhân dân, triển khai các chính sách đặc thù hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đồng thời thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" trong xây dựng quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được triển khai đồng bộ và hiệu quả, góp phần giữ ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội. Lực lượng vũ trang tỉnh thực hiện thành công nhiều mô hình tiêu biểu ở vùng đồng bào DTTS, như "Mỗi chi bộ, đảng bộ giúp một hộ dân giảm nghèo bền vững", "Nâng bước em đến trường", "Mẹ đỡ đầu", "Cặp lá yêu thương" và "Mái tóc cho em",…
Công tác tuần tra, kiểm soát an ninh biên giới được duy trì nghiêm ngặt, kịp thời ngăn chặn các hoạt động phi pháp. Đồng thời, triển khai hiệu quả các đợt cao điểm đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự, không để xảy ra “điểm nóng” về an ninh tại các địa bàn trọng điểm là các huyện Krông Nô, huyện Tuy Đức, huyện Đắk R'lấp, huyện Đắk Song, huyện Đắk Glong.
Một số hạn chế, bất cập cần khắc phục
Công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến và tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Trung ương và tỉnh về công tác dân tộc, CTDV ở vùng đồng bào DTTS ở một số nơi, một số thời điểm chưa kịp thời, hiệu quả. Công tác tuyên truyền, vận động, việc thực hiện công khai các chính sách để phát huy dân chủ ở cơ sở, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” tại một số địa phương còn hình thức. Công tác kiểm tra, giám sát về công tác dân tộc có lúc chưa quan tâm. Việc giải quyết một số bức xúc trong đồng bào DTTS còn chậm.
Công tác dân vận của một số cơ quan nhà nước chưa sâu sát, hiệu quả; một số sở, ngành chưa xây dựng các văn bản cụ thể hóa để thực hiện công tác dân tộc, CTDV ở vùng đồng bào DTTS. Đến nay, một số văn bản liên quan đến cơ chế, chính sách, định mức hỗ trợ thực hiện các nội dung dự án thành phần thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi còn gặp vướng mắc, như: Các dự án thành phần sau khi được phân bổ vốn chưa có văn bản của các bộ, ngành trung ương hướng dẫn hoặc đã có hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ, đồng bộ; nguồn vốn Chương trình phần lớn được bố trí ở dự án Bô-xít và quy hoạch 3 loại rừng ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện chung; công tác phối hợp giữa các sở, ban, ngành có liên quan trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình chưa kịp thời; các sở, ngành chưa chủ động hướng dẫn, rà soát, báo cáo đề xuất, kiến nghị giải quyết những bất cập, hạn chế, khó khăn trong thực hiện các dự án thành phần được giao chủ trì dự án.
Đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ tại chỗ một số địa phương còn thiếu và yếu, trình độ quản lý, năng lực điều hành chưa đáp ứng yêu cầu. Việc bố trí cán bộ là người DTTS, cán bộ làm công tác dân tộc ở một số cơ quan, đơn vị chưa phù hợp. Một số cán bộ, công chức, viên chức chưa thể hiện đúng tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, ý thức phục vụ nhân dân chưa cao, chưa phát huy được vai trò tổ chức, vận động người dân, xây dựng lực lượng chính trị ở vùng có đông đồng bào DTTS...
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm CTDV ở vùng đồng bào DTTS một số nơi chưa thực sự hiệu quả, chưa kịp thời nắm bắt tình hình dân tộc, tâm tư, nguyện vọng và việc giải quyết những bức xúc, kiến nghị chính đáng của đồng bào DTTS. Việc phối hợp với các ban, ngành trong CTDV, công tác dân tộc chưa chủ động, thiếu chặt chẽ. Công tác giám sát và phản biện của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các chính sách dân tộc, các chương trình mục tiêu quốc gia chưa thường xuyên.
Một số chính sách mang tính giai đoạn, quy định cứng về chế độ, định mức, chưa theo kịp với biến động giá cả thực tế nên hiệu lực pháp lý chưa cao, thiếu ổn định lâu dài. Mặt khác, một số chính sách được ban hành nhưng nguồn lực tài chính chưa đảm bảo để thực hiện.
Những bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh Đắk Nông đối với CTDV ở vùng đồng bào DTTS trong thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau đây:
Một là, phải luôn có sự chỉ đạo sát sao của cấp ủy các cấp trong quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về CTDV ở vùng đồng bào DTTS.
Thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về CTDV ở vùng đồng bào DTTS và các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, tạo sự đồng thuận trong việc triển khai thực hiện. Đồng thời, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không để kẻ xấu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để gây rối làm mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh; thường xuyên củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị vùng đồng bào DTTS. Đề cao vai trò trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện CTDV ở vùng đồng bào DTTS, chính sách dân tộc.
Hai là, tập trung các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào vùng DTTS.
Tổ chức huy động các nguồn lực, tranh thủ nguồn vốn đầu tư có mục tiêu từ ngân sách trung ương, đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực có đủ điều kiện nhằm huy động tối đa các nguồn vốn từ xã hội vào đầu tư phát triển vùng DTTS; thực hiện lồng ghép vốn các đề án, dự án, chính sách dân tộc với các chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và các chương trình mục tiêu khác trên địa bàn để hỗ trợ sự phát triển vùng đồng bào DTTS, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Coi trọng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới vùng dân tộc, miền núi, các xã biên giới, hoàn thành việc xây dựng các tuyến đường giao thông nối liên vùng sản xuất hàng hóa, trung tâm các xã, thôn, bản, bon, bảo đảm điện thắp sáng, các công trình nước sinh hoạt. Phát triển hạ tầng truyền dẫn, phát sóng đồng bộ, bảo đảm các dịch vụ phát thanh, truyền hình, viễn thông và công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của đồng bào DTTS…
Ba là, chú trọng đổi mới CTDV trong các cơ quan nhà nước; rà soát, ban hành và thực hiện tốt chính sách dân tộc.
Thực tiễn CTDV ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Đắk Nông cho thấy, chính quyền, các cơ quan nhà nước đã chú trọng đổi mới CTDV trong các cơ quan nhà nước để gần dân, sát dân, chủ động lắng nghe và kịp thời giải quyết các kiến nghị, vướng mắc. Các chính sách dân tộc được rà soát, ban hành và thực hiện công khai, dân chủ, đặc biệt các chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi. Tỉnh đã triển khai hiệu quả các kế hoạch nhằm nâng cao hiệu quả CTDV và thực hiện đồng bộ các quyết định của Chính phủ liên quan đến chính sách dân tộc.
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành và triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất cho hộ gia đình đồng bào DTTS nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tích cực triển khai công tác kết nghĩa giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội với các bon, buôn đồng bào DTTS, giúp đồng bào nâng cao nhận thức và cảnh giác trước âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch. Việc kết nghĩa còn góp phần hỗ trợ bà con phát triển kinh tế, ổn định đời sống. Qua đó, hệ thống chính trị các cấp đã tạo dựng niềm tin, gắn kết chặt chẽ với đồng bào DTTS, góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị trên địa bàn tỉnh.

Bốn là, phối hợp CTDV vùng đồng bào DTTS với công tác đối ngoại nhân dân trong bảo vệ biên giới; đấu tranh chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Từ thực tiễn CTDV ở vùng đồng bào DTTS cho thấy, để mang lại hiệu quả, Tỉnh ủy Đắk Nông đã chỉ đạo các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị tập trung tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân tộc, tích cực tham gia các chương trình, chính sách dân tộc, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, tỉnh chú trọng đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các hành vi lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm kích động, chia rẽ cộng đồng, nâng cao tinh thần cảnh giác của đồng bào trước các âm mưu gây mất an ninh, trật tự của thế lực thù địch.
Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên các hoạt động đối ngoại nhân dân, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 04-CT/TW về đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới. Ban Dân vận Tỉnh ủy chủ trì ký kết chương trình phối hợp dân vận với tỉnh Mondulkiri (Campuchia), tạo cơ sở để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai hiệu quả nhiều hoạt động giao lưu, hỗ trợ, tặng quà và trao đổi kinh nghiệm giữa hai bên. Đặc biệt, tỉnh đã tổ chức thành công các cuộc gặp mặt cựu chuyên gia quân tình nguyện Việt Nam - Campuchia, góp phần tăng cường tình đoàn kết, tin cậy và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Năm là, xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ dân vận; đổi mới phương thức CTDV ở vùng đồng bào DTTS.
Tỉnh ủy Đắk Nông thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác dân vận, công tác tuyên giáo các cấp đủ số lượng, cơ cấu, chất lượng theo quy định. Bảo đảm tỷ lệ hợp lý cán bộ là người DTTS trong các cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là lực lượng nòng cốt, cán bộ chuyên trách CTDV. Các cơ quan, ban, ngành các cấp bố trí ít nhất có một cán bộ lãnh đạo là người DTTS. Thực hiện công tác luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ dân vận là người DTTS theo Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 24-7-2006, của Tỉnh ủy “Về công tác cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020”; ưu tiên cán bộ vùng đặc biệt khó khăn và cán bộ đã trải qua CTDV để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, coi trọng phát huy vai trò của đoàn viên, hội viên, nhất là người có uy tín, các già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo... trong tham gia tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS thực hiện các chính sách dân tộc và củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.
---------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 249
(2) Báo cáo số 1336/BC-BDT, ngày 21-12-2023, của Ban Dân tộc tỉnh Đắk Nông, “Về kết quả công tác dân tộc năm 2023 và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2024”, tr. 3
(3) Báo cáo số 1336/BC-BDT, ngày 21-12-2023, của Ban Dân tộc tỉnh Đắk Nông, “Về kết quả công tác dân tộc năm 2023 và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2024”, tr. 3
(4) Báo cáo số 10-BC/TU, ngày 11-11-2020, của Tỉnh ủy Đắk Nông, “Về kết quả 5 năm thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 20-10-2015, của Ban Bí thư, “Về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, tr. 1
(5) Báo cáo số 219-BC/BDVTU, ngày 13-12-2023, của Ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Nông, “Kết quả công tác dân tộc, công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số năm 2023”, tr. 12
Công tác dân vận - giải pháp quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh (23/04/2025)
- Đổi mới sáng tạo sinh thái trong ngành dệt may Việt Nam - động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững
- Nhận diện và phản bác các luận điệu thù địch xuyên tạc về công cuộc tinh gọn bộ máy
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
- Tư duy đổi mới - Từ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh đến quá trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta
- Phát huy vai trò lãnh đạo của cán bộ, công chức, viên chức, xây dựng nền hành chính Thủ đô văn minh, hiện đại, hiệu lực và hiệu quả
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm