Khai thác, phát huy vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Giang
Thực trạng sản xuất - kinh doanh của làng nghề ở Bắc Giang
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có 33 làng nghề; trong đó có 24 làng nghề truyền thống, thu hút trên 19.200 lao động. Ngoài ra, toàn tỉnh có gần 14.300 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp với các ngành nghề như chế biến nông, lâm sản; sản xuất cơ khí; vật liệu xây dựng; thủ công mỹ nghệ; dệt thổ cẩm,… thu hút đáng kể lực lượng lao động tại chỗ và lao động từ nơi khác đến. Theo kế hoạch vừa được UBND tỉnh phê duyệt về quy hoạch phát triển làng nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn 2030, đến năm 2020, tỉnh sẽ đầu tư mở rộng và phát triển thêm 32 làng nghề. Cụ thể, đến cuối năm 2015, tỉnh sẽ phát triển thêm 8 làng nghề mới đưa số làng nghề lên 41; tạo việc làm cho 4.160 người, nâng số lao động trong làng nghề lên trên 21.000 người; thu nhập bình quân đạt 3,5 triệu đông/người/tháng; giá trị sản xuất công nghiệp làng nghề bằng 2,9% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh, nộp ngân sách đạt 1.200 triệu đồng. Giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh đầu tư mở rộng và phát triển thêm 24 làng nghề; nâng số làng nghề của tỉnh lên 65; tạo việc làm mới cho 11.935 người; nâng số lao động trong làng nghề lên trên 33.000 người; thu nhập bình quân 6 triệu đồng/người/tháng; giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp làng nghề đạt 2,8% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh; nộp ngân sách 1.850 triệu đồng.
Trong những năm qua, sự phát triển của làng nghề tỉnh Bắc Giang đã đạt được những kết quả trên các khía cạnh như sau:
Về thị trường, các làng nghề đã chủ động tìm kiếm được nguồn nguyên liệu và thị trường xuất khẩu cho sản phẩm của mình. Thị trường được mở rộng, việc trao đổi hàng hóa và tiêu thụ hàng hóa được chú trọng. Sản phẩm làng nghề ngày càng đa dạng và phong phú. Sản phẩm gỗ mỹ nghệ, mây tre đan, dệt thổ cẩm, bún, bánh đa… có khả năng tiêu thụ lớn ở thị trường trong nước và xuất khẩu sang Trung Quốc, Đài Loan, Pháp và Nga.
Về công nghệ, các làng nghề trong tỉnh đã áp dụng nhiều kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh. Mặc dù đưa công nghệ mới vào sản xuất nhưng các làng nghề vẫn không làm mất đi công nghệ truyền thống vốn có của sản phẩm và vẫn giữ được chất lượng của sản phẩm.
Về nguồn nhân lực, trình độ tay nghề của người lao động trong các làng nghề ngày được nâng cao. Trước đây, sản xuất kinh doanh ở các làng nghề sử dụng công cụ sản xuất thủ công là chính. Kể từ khi nước ta gia nhập WTO, cạnh tranh của sản phẩm nhập ngoại ngày càng lớn. Tỉnh đã có chính sách đầu tư cho việc đào tạo tay nghề cho lao động ở các làng nghề, năm 2009 tỉnh đã đầu tư 1,3 tỷ đồng cho công tác đào tạo nghề và 2 tỷ đồng cho các hoạt động khuyến công, qua đó, nâng cao trình độ tay nghề cho lao động, tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm.
Về trình độ quản lý, sản xuất kinh doanh ở các làng nghề không chỉ dừng lại ở hộ gia đình mà hiện nay đã được nâng cao hơn ở mức hợp tác xã, công ty TNHH… Do vậy, trình độ quản lý kinh doanh ở các làng nghề ngày càng được nâng cao. Nhiều chủ cơ sở sản xuất kinh doanh ở các làng nghề đã qua các khóa đào tạo về quản trị kinh doanh và sử dụng thành thạo máy vi tính, công nghệ thông tin trong giao dịch với bạn hàng và tìm kiếm thông tin thị trường…
Mặc dù đạt được những kết quả đáng kể, song quá trình phát triển làng nghề của tỉnh vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế cần giải quyết như:
Một là, thiếu sự liên kết và hợp tác chặt chẽ giữa các nghệ nhân, người thợ, nhà quản lý và người tìm kiếm thị trường. Do vậy, để các làng nghề duy trì và phát triển sản phẩm của mình phải thu hút được nghệ nhân và nghệ nhân phải truyền được nghề cho thợ. Giữa nghệ nhân và thợ phải có tâm huyết với nghề và tạo sự đồng thuận trong sáng tạo nghệ thuật cho sản phẩm của làng nghề. Còn nhà quản lý phải biết cách thu hút nghệ nhân, người lao động, tổ chức tốt việc khai thác nguồn nguyên liệu và tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của mình.
Hai là, sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề trên thị trường còn yếu và có tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Sức cạnh tranh của sản phẩm còn yếu do chất lượng sản phẩm chưa cao. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, mẫu mã đơn điệu, nhãn hiệu hàng hóa, bao bì sản phẩm còn thiếu và nghèo nàn. Công nghệ sản xuất còn lạc hậu, nên sức cạnh tranh thấp (qua khảo sát có tới 80% các cơ sở không đủ vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất). Hầu hết các hộ, cơ sở ngành nghề nông thôn đều sử dụng nhà ở làm nơi sản xuất.
Ba là, tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề có xu hướng gia tăng và chưa có giải pháp giải quyết triệt để. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước, chất thải rắn, không khí và tiếng ồn ở mức khá cao, chất lượng môi trường không đạt tiêu chuẩn, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân, người lao động, đặc biệt là ở các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ. Đó là những nơi sử dụng nhiều nước và hàm lượng các chất ô nhiễm trong nguồn nước vượt quy chuẩn cho phép hàng chục lần. Ở các làng nghề dệt, nhuộm, thủ công mỹ nghệ, mây tre đan và tái chế giấy, nước thải có hàm lượng cặn lớn và chứa nhiều chất ô nhiễm từ dung môi, dư lượng các hóa chất thường vượt tiêu chuẩn từ 2 - 8 lần.
Bốn là, chưa có sự định hướng quy hoạch cho phát triển các làng nghề. Việc đầu tư phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch chưa được quy hoạch thống nhất. Sự đầu tư cho quy hoạch này còn mang tính tự phát. Cho nên các làng nghề truyền thống chưa khai thác tốt các tiềm năng du lịch trong việc quảng bá và tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống. Các tiện nghi phụ vụ khách du lịch chưa được hoàn thiện và hoạt động du lịch làng nghề còn mang nặng tính thương mại. Do đó, không có sức hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế.
Năm là, chính sách hỗ trợ làng nghề chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Nhà nước và địa phương đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ như về đất đai, tài chính, môi trường kinh doanh và hỗ trợ thương mại. Tuy nhiên, khả năng thực thi chính sách và biện pháp khuyến khích còn rất khác nhau giữa các địa phương.
Giải pháp khai thác, phát huy các làng nghề cho phát triển kinh tế, xã hội
Một là, chủ động và tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường cho làng nghề
Đối với thị trường đầu vào, trong những năm gần đây, việc cung ứng này đã gặp nhiều khó khăn, nguồn nguyên liệu tại chỗ hầu như chỉ duy trì sản xuất ở quy mô nhỏ, chứ không đủ để mở rộng quy mô sản xuất. Vì vậy, việc sản xuất của làng nghề phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp nguyên liệu từ các địa phương khác. Do vậy, các cơ sở nghề cần phải liên kết với nhau, chủ động tạo nguồn nguyên liệu ổn định, đảm bảo chất lượng; liên doanh liên kết với các địa phương khác nhằm tạo nguồn nguyên liệu ổn định.
Đối với thị trường đầu ra cho sản phẩm, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề cần liên kết với nhau để nghiên cứu và tiến hành mở các đại lý phân phối, các cửa hàng, quầy giới thiệu sản phẩm tại các đô thị, điểm thương mại, các chợ nông thôn ở các địa phương khác nhau.
Đa dạng hóa thị trường và kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm từ các làng nghề, thông qua thị trường để nắm bắt được thị hiếu và nhu cầu thị trường. Các làng nghề cần xây dựng bộ tài liệu giới thiệu sản phẩm (catalog) với thiết kế, in ấn đẹp hoặc xây dựng chương trình giới thiệu sản phẩm ghi vào đĩa CD ROM để tiện cho việc giới thiệu sản phẩm.
Xây dựng trang thông tin điện tử (Website) để cung cấp thông tin, cập nhật thông tin cần tham khảo, giới thiệu sản phẩm, giao dịch… cho những vấn đề sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng sản phẩm của làng nghề.
Chủ động, tích cực trong phối hợp hoạt động với các hiệp hội ngành nghề, câu lạc bộ ngành nghề. Thông qua các tổ chức này, các cơ sở nghề được trao đổi và cung cấp thông tin về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, giá cả, thị hiếu tiêu dùng, mẫu mã và chất lượng sản phẩm… Tạo ra sự hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của làng nghề.
Hai là, đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ thích hợp cho làng nghề
Ứng dụng công nghệ mới phù hợp với đặc điểm phát triển của mỗi làng nghề, khả năng tài chính, trình độ chuyên môn của người lao động. Đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ phải phù hợp với từng ngành nghề truyền thống. Lựa chọn công nghệ, chuyển giao công nghệ thiết thực cho từng ngành nghề làm cho sản phẩm đa dạng, phong phú về chủng loại, hiện đại về mẫu mã. Đồng thời, đổi mới công nghệ phải đem lại năng suất lao động cao, giá thành hạ và hạn chế đến mức thấp nhất ô nhiễm môi trường.
Khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở sản xuất trong làng nghề đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ, hiện đại hóa công nghệ truyền thống, áp dụng công nghệ nhiều trình độ trong khu vực sản xuất của làng nghề để sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh trên thị trường.
Tăng cường cung cấp thông tin về khoa học - công nghệ đến các cơ sở sản xuất kinh doanh một cách kịp thời để giúp các cơ sở sản xuất có sự hiểu biết về khoa học và công nghệ. Nâng cao ý thức của người lao động về việc đổi mới công nghệ, coi đó là con đường duy nhất để tồn tại và phát triển. Kết hợp với các trường đại học, viện nghiên cứu để được tư vấn về đổi mới, chuyển giao công nghệ phù hợp.
Cần có biện pháp xử lý các cơ sở sản xuất có thiết bị quá cũ kỹ, tiêu tốn nhiều nguyên nhiên liệu và gây ô nhiễm môi trường.
Ba là, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trong làng nghề
Vấn đề vốn cho các cơ sở, doanh nghiệp ở làng nghề luôn là những trở ngại lớn nhất đối với phát triển kinh tế. Mặc dù các thể chế tín dụng, ngân hàng ở các địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hộ tiếp cận nguồn vốn, nhưng tình trạng thiếu vốn đầu tư vẫn còn khá phổ biến. Số hộ thiếu vốn hoặc có nhu cầu vay vốn ở nhiều làng nghề chiếm tới 60 - 70%. Khả năng, nhu cầu và điều kiện về tài chính, vốn đầu tư của các hộ là rất khác nhau giữa các loại hình làng nghề, giữa các làng nghề.
Tình trạng thiếu vốn đầu tư của các cơ sở làng nghề là trở ngại đối với phát triển kinh tế và cải thiện môi trường của các hộ làng nghề. Đặc biệt là đối với đầu tư cho xây dựng nhà xưởng, mở rộng mặt bằng sản xuất, đổi mới công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Chính vì vậy, chính quyền địa phương cần xây dựng cơ chế để điều tiết việc vay vốn kịp thời cho các hộ sản xuất kinh doanh ở làng nghề theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của họ. Tạo điều kiện thuận lợi cho họ tiếp cận với nguồn vốn vay từ quỹ khuyến công để đầu tư xây dựng nhà xưởng, trang thiết bị tiên tiến vào sản xuất kinh doanh, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với thị hiếu của khách hàng trong nước và ngoài nước.
Bốn là, về đào tạo nghề cho người lao động
Tỉnh cần có chính sách và tổ chức phối hợp với các nghệ nhân, các cơ sở đào tạo nghề để làm tốt công tác đào tạo nghề cho người lao động. Để mở rộng quy mô đào tạo nghề, cần tăng cường công tác tuyên truyền như tổ chức tập huấn, hội thảo, cung cấp thông tin về dạy nghề. Đa dạng hóa các trình độ đào tạo nghề theo các cấp bậc nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực. Nội dung các chương trình đào tạo nghề phải thiết thực và chất lượng.
Các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh cần tiến hành khảo sát, điều tra tổng thể các doanh nghiệp ngành nghề và đội ngũ các nghệ nhân, thợ lành nghề đang có trên địa bàn, kịp thời bổ sung danh mục những ngành nghề mới. Hướng dẫn các cơ sở đào tạo, trên cơ sở cụ thể hóa các nội dung của chương trình khung, xây dựng chương trình cụ thể những nghề mà địa phương cần đào tạo.
Chuẩn hóa và phát triển đội ngũ giáo viên theo yêu cầu mới. Tỉnh cần quan tâm nhiều hơn đến việc chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và hệ thống đào tạo nghề ở khu vực này. Từ trường lớp, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên, ngành nghề đào tạo, chương trình và nội dung đào tạo nhằm cung cấp cho làng nghề nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Năm là, xử lý ô nhiễm môi trường trong các làng nghề
Xây dựng khu tập kết chất thải rắn thông thường, chất thải nguy hại, đầu tư trang thiết bị đáp ứng nhu cầu thu gom, phân loại chất thải để không ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của người dân.
Hỗ trợ đầu tư cải tạo, nâng cấp hoặc xây dựng mới hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải tập trung. Xây dựng đồng bộ hệ thống cấp nước cho sản xuất và hệ thống xử lý nước thải tại các làng nghề tập trung. Có chính sách ưu đãi tiền thuê đất, thuế, phí… đối với những cơ sở sản xuất đầu tư, áp dụng công nghệ mới hoặc lắp đặt hệ thống xử lý chất thải, ít gây ô nhiễm môi trường.
Các cơ quan quản lý chuyên trách về môi trường cần sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để theo dõi, quản lý các chất thải, tình hình ô nhiễm môi trường. Kịp thời xử lý nghiêm những cá nhân, đơn vị vi phạm gây ra ô nhiễm môi trường.
Huy động các nguồn vốn để xử lý ô nhiễm môi trường; áp dụng chế tài bảo đảm để pháp luật được thực hiện nghiêm minh ở các làng nghề. Các làng nghề cần nâng cao trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường, nhằm thực hiện tốt các quy định về bảo vệ môi trường./.
Thủ tướng đề nghị Hàn Quốc sớm phê chuẩn Hiệp định FTA  (20/06/2015)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viếng Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia  (19/06/2015)
Phó Chủ tịch Quốc hội tiếp đoàn đồng bào dân tộc thiểu số Đắk Lắk  (19/06/2015)
Chủ tịch Cuba tiếp đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam  (19/06/2015)
Chủ tịch nước trao giải thưởng cho các nhà văn có nhiều tác phẩm xuất sắc về chủ đề Công an nhân dân  (19/06/2015)
Thảo luận về các vấn đề thời sự và giải quyết xung đột ở Biển Đông  (19/06/2015)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm