Nâng cao trách nhiệm và tình cảm xã hội với người có công
Sự vận hành của nền kinh tế thị trường đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp nhưng việc ưu đãi người và gia đình có công với cách mạng vẫn là nguyên tắc Hiến định và được ghi nhận trang trọng ở Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992: “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khỏe và đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc”. Nguyên tắc này đã được thể chế trong “Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng” do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành và được quy định cụ thể tại các Nghị định của Chính phủ. Đây là một bước tiến dài trong việc pháp điển hóa pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng, là sự kế thừa, chọn lọc và phát triển những bài học của hơn nửa thế kỷ qua với một hệ thống văn bản quy định về chính sách ưu đãi đối với người và gia đình có công với cách mạng, trở thành một hệ thống chính sách bao gồm nhiều mặt của đời sống (trợ cấp, phụ cấp, chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, ưu đãi về giáo dục - đào tạo, về việc làm, ruộng đất, tín dụng, thuế...) thiết thực hỗ trợ người có công ổn định đời sống, nỗ lực vươn lên trong hoàn cảnh mới.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương trên cơ sở kết hợp ba nguồn lực: nhà nước, cộng đồng và cá nhân các đối tượng chính sách tự vươn lên”.
Phương châm thực hiện chính sách ưu đãi trên cơ sở ba nguồn lực “Nhà nước, nhân dân và bản thân đối tượng” luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong công tác ưu đãi người có công.
Việc chăm sóc người có công với trách nhiệm và lòng biết ơn là một nét đẹp, một truyền thống nhân văn của dân tộc. Sự đóng góp của cộng đồng là nguồn lực không thể thiếu để đạt mục tiêu của chính sách và bao giờ cũng là nguồn bổ sung phong phú để góp phần cùng Nhà nước chăm sóc tốt hơn, chu đáo hơn đời sống người có công. Tiềm năng của cộng đồng là nguồn bù đắp những thiếu hụt của các gia đình chính sách và bổ sung những nội dung mà chính sách Nhà nước với tính chất là mặt bằng chung cho các đối tượng không thể đạt tới, kịp thời giải quyết những nhu cầu bức xúc trong cuộc sống của gia đình chính sách ngay tại thôn bản, làng xã, đường phố với những hình thức, biện pháp sáng tạo và sinh động. Cũng chính từ đó mà quan hệ giữa các tầng lớp nhân dân với người có công với cách mạng được củng cố và gắn bó mật thiết hơn, góp phần giáo dục lòng yêu nước, giữ vững niềm tự hào dân tộc, củng cố hậu phương quân đội, động viên thế hệ hôm nay và mai sau biết trân trọng gìn giữ, phát huy những tinh hoa ấy trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, qua đó thúc đẩy việc thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng từ cơ sở. Trong năm 2010, cộng đồng xã hội đã đóng góp gần 291 tỉ đồng cho Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, tặng trên 11.000 nhà Tình nghĩa (trị giá khoảng 306 tỉ đồng), hơn 16.000 sổ tiết kiệm Tình nghĩa (trị giá hơn 13,6 tỉ đồng), 10.274 xã, phường trên toàn quốc (khoảng 95%) làm tốt công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh kinh tế - xã hội của đất nước nên nguồn lực của cộng đồng trên thực tế còn hạn hẹp, lại phụ thuộc vào khả năng của từng địa phương, cơ sở, nên người có công với cách mạng ở những địa phương có đông đối tượng chính sách, bị thiệt hại nhiều trong chiến tranh, kinh tế chưa phát triển, vùng sâu, vùng xa, khu căn cứ kháng chiến cũ… vẫn bị thiệt thòi.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, tiếp nhận những ưu đãi từ chính sách của Nhà nước và sự tiếp sức của cộng đồng, người có công với cách mạng đã phát huy truyền thống, năng lực, sở trường của mình trong hoàn cảnh mới để xứng đáng là những “công dân kiểu mẫu”, những “gia đình cách mạng gương mẫu”. Nhiều anh chị em thương binh đã vượt lên thương tích để tìm cho mình việc làm phù hợp, vượt qua đói, nghèo. Nhiều thân nhân liệt sĩ tuổi cao, sức yếu nhưng vẫn cố gắng vươn lên để chăm lo cho bản thân và gia đình một cuộc sống tốt đẹp, nuôi dạy con cháu trở thành những công dân tốt của đất nước. Ở địa phương nào, trong bất cứ lĩnh vực nào chúng ta cũng gặp có những thương binh, thân nhân liệt sĩ đã vượt lên những trở ngại về sức khỏe, tuổi tác và hoàn cảnh để trở thành những nhà khoa học xuất sắc, những nhà quản lý có uy tín, những người làm ăn giỏi, tạo được việc làm thu hút được hàng chục, hàng trăm lao động trong những gia đình chính sách hoặc những gia đình nghèo ở địa bàn cư trú, hoặc đảm đương trọng trách lãnh đạo trong nhiều lĩnh vực từ Trung ương đến cơ sở. Trong số đó, nhiều người được Nhà nước tuyên dương danh hiệu “Anh hùng Lao động”. Thế nhưng, nhìn chung, đời sống của nhiều người có công vẫn còn khó khăn, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, khu căn cứ địa cách mạng, bởi hầu hết người có công với cách mạng đều đã tuổi cao sức yếu, khả năng vươn lên của bản thân ngày một hạn chế. Do những khó khăn về sức khỏe, về trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ trong khi những quy định, hướng dẫn ưu đãi trong lĩnh vực giải quyết việc làm chưa thực sự theo kịp với tiến trình đổi mới và các diễn biến xã hội nên người có công trở thành đối tượng yếm thế khi cạnh tranh trên thị trường lao động, nhất là trong bối cảnh “việc làm” đang là vấn đề nổi cộm và đang gây áp lực rất lớn đối với nền kinh tế - xã hội của nước ta.
Chính sách ưu đãi của Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo và là đòn bẩy trong việc ổn định và nâng cao đời sống của gia đình chính sách với quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta là trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải ưu đãi người có công với cách mạng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hài hòa với các mối quan hệ xã hội khác, bảo đảm để đời sống người có công với cách mạng được “yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần”. Trước hết là phải bảo đảm được nhu cầu thiết yếu của những người hầu như không còn khả năng lao động hoặc đã có nhiều hy sinh cống hiến (như thương bệnh binh mất sức lao động từ 81% trở lên, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng già yếu bệnh tật....); bảo đảm việc phục hồi chức năng sinh hoạt, lao động; bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe người có công với cách mạng thông qua tổ chức hiệu quả việc phục hồi chức năng, cung cấp kịp thời và thuận tiện những phương tiện chuyên dùng theo yêu cầu của thương tật và bệnh tật, tạo những tiền đề cần thiết (như ưu đãi về ruộng đất, vốn, thuế, giáo dục và đào tạo...) để người có công với cách mạng có việc làm phù hợp và có kết quả. Tuy nhiên, các chính sách ưu đãi thiết thực trực tiếp tác động đến đời sống của đối tượng người có công này chưa đáp ứng được cả về mức độ lẫn số lượng, việc tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn, không ít sai sót, làm hạn chế tác dụng và còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, tình cảm và trách nhiệm của từng địa phương, cơ sở.
Chính vì vậy, nguồn lực của Nhà nước thông qua chế độ trợ cấp ưu đãi thường xuyên ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong việc ổn định đời sống của người có công với cách mạng bởi đa phần họ là những người không hưởng chế độ lương hay bảo hiểm xã hội trong khi tuổi tác ngày càng cao, những nỗ lực vươn lên của bản thân ngày càng hạn chế, nguồn lực của cộng đồng cũng chỉ có giới hạn.
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng đã nêu rõ một nguyên tắc chung là chế độ ưu đãi phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước. Điều đáng lưu ý nhất là chế độ trợ cấp hằng tháng đã từng bước phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trợ cấp ưu đãi hằng tháng đối với người có công trong thực tế so với trước đây không còn đơn thuần là sự liệt kê bao cấp (định tính) mà đã mang tính định lượng cụ thể, sát thực, khách quan và linh hoạt; góp phần ổn định đời sống những người và gia đình có công với cách mạng thông qua việc điều chỉnh chế độ trợ cấp ưu đãi khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên, tạo điều kiện cải thiện rõ rệt đời sống một bộ phận người có công có hoàn cảnh đặc biệt như các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (trợ cấp hằng tháng hiện là 2.200.000đồng), thân nhân liệt sĩ già yếu cô đơn (trợ cấp nuôi dưỡng hằng tháng nay là 1.565.000 đồng/tháng), thương bệnh binh nặng suy giảm khả năng lao động 81% trở lên (mức trợ cấp hiện từ 2.445.000 đồng đến 3.711.000 đồng/tháng)... Đối với phần lớn đối tượng người có công như thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ... tuy mức trợ cấp còn thấp nhưng đã thể hiện sự cố gắng cao của Nhà nước. Hằng năm, ngân sách Nhà nước đã dành khoảng 18.000 tỉ đồng để thực hiện chế độ trợ cấp ưu đãi thường xuyên và các chế độ ưu đãi khác nhằm không ngừng chăm lo đến đời sống của người có công với cách mạng ngày càng tốt hơn; góp phần củng cố lòng yêu nước, lòng tin đối với Đảng, chế độ; cổ vũ họ tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Trên 90% số đối tượng ưu đãi không thuộc diện hộ đói nghèo, phấn khởi tin tưởng vào công cuộc đổi mới của đất nước, tích cực tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội, chấp hành tốt chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đất nước ta đang trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế chính là cơ sở, điều kiện để thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội. Báo cáo Chính trị của Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã nêu: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công... Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn”(1). Để nâng cao mức sống người có công với cách mạng trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ những giải pháp sau:
- Thực hiện cải cách để khẳng định vai trò của chế độ trợ cấp ưu đãi là nguồn lực chủ yếu trong việc ổn định đời sống của đối tượng chính sách. Trợ cấp ưu đãi phải bảo đảm được mức sống từ trung bình trở lên với một số đối tượng không còn khả năng lao động hoặc không nơi nương tựa hay bảo đảm hỗ trợ được các nhu cầu thiết yếu trong đời sống của người có công với cách mạng còn một phần sức lao động.
- Nghiên cứu hoàn thiện các chế độ ưu đãi trực tiếp tác động đến đời sống của người có công như chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ nhà ở, ưu đãi về vốn, thuế, giáo dục, việc làm… Tăng cường phối hợp giữa các ngành, các đoàn thể trong việc định hướng, xác định mục tiêu và nội dung các chương trình hoạt động nhằm phát huy thế mạnh của từng ngành, từng đoàn thể, tạo điều kiện đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”; tiếp tục phát triển sâu rộng phong trào toàn dân chăm sóc người có công bằng các chương trình cụ thể, tạo thêm nguồn lực góp phần nâng cao mức sống đối với người có công với cách mạng. Sự đóng góp của cộng đồng là nguồn lực không thể thiếu để đạt mục tiêu của chính sách và bao giờ cũng là nguồn bổ sung phong phú để góp phần cùng Nhà nước chăm sóc tốt hơn, chu đáo hơn đời sống người có công.
- Tổ chức, sắp xếp bộ máy quản lý Nhà nước trong lĩnh vực người có công từ khâu nghiên cứu, quản lý chỉ đạo đến tổ chức thực hiện với cơ sở vật chất, trang thiết bị tương xứng với yêu cầu của công việc, đồng thời nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ cả về đạo đức và năng lực. Thực hiện cải cách hành chính, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kịp thời và sâu rộng các văn bản quy định về chính sách ưu đãi người có công; phát huy dân chủ và công khai trong việc thực hiện chính sách, tạo điều kiện để người có công thuận lợi thụ hưởng chính sách.
Chính sách đối với người có công không chỉ là vấn đề đạo lý truyền thống mà còn là một vấn đề chính trị, tư tưởng, tình cảm, xã hội; không phải chỉ là vấn đề cấp bách trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài, là một trong những vấn đề lớn gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Làm tốt công tác ưu đãi người có công với cách mạng một mặt phát huy được tiềm năng phong phú về tri thức, kinh nghiệm đã tích lũy được trong quá trình đấu tranh cách mạng của mọi thế hệ, đồng thời ổn định tình hình chính trị, góp phần củng cố lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước, góp phần giáo dục thế hệ trẻ, động viên thanh niên sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam phát triển tốt đẹp./.
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 229 - 230
Điện mừng các đồng chí lãnh đạo Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ nước ta  (27/07/2011)
Bộ Tài chính đẩy mạnh thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô  (27/07/2011)
Binh chủng Tăng Thiết giáp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội  (27/07/2011)
Thông cáo số 5, kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII  (27/07/2011)
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dâng hương tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh  (27/07/2011)
Hà Nội tổ chức thắp nến tri ân anh hùng liệt sĩ  (27/07/2011)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Phụ nữ Việt Nam trong nền kinh tế số
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm