Ý nghĩa của Hiệp định Paris đối với việc tạo dựng hình ảnh, vị thế quốc gia trong quan hệ với các nước lớn

Hoàng Thanh Hải
Phó Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo Trung ương
20:18, ngày 12-03-2023

TCCS - Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam cũng như những cuộc đàm phán ở Paris về Việt Nam từ năm 1968 - 1973, đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận thế giới. Sự kiện ký kết Hiệp định Paris ngày 27-1-1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam sau gần 5 năm đàm phán(1) đã ghi dấu mốc quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam và lịch sử thế giới trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX.

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27-1-1973, tại Trung tâm hội nghị quốc tế ở Thủ đô Paris (Pháp) _Ảnh: Tư liệu

Hiệp định Paris là kết tinh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, tình đoàn kết quân dân, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ý chí kiên cường, bất khuất, đấu tranh bền bỉ bảo vệ chân lý, khát vọng độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam; là lời khẳng định về sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt, đúng đắn, linh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; là sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất, nhịp nhàng giữa các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao với sách lược “vừa đánh, vừa đàm”, “vừa nhu, vừa cương” trên bàn đàm phán, dựa vào chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tạo ra sức mạnh tổng hợp, giành toàn thắng.

Hiệp định Paris đã đi vào lịch sử, mang ý nghĩa thời đại sâu sắc và đúc kết những bài học lớn, đặc biệt đối với việc tạo dựng hình ảnh, vị thế và uy tín quốc gia của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn.

Thứ nhất, đây là thắng lợi của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đúng đắn của Đảng ta, nhất là trong quan hệ với các nước lớn. Khác với Hội nghị Genève năm 1954 về Đông Dương, cuộc đàm phán ở Thủ đô Paris (Pháp) là cuộc đàm phán trực tiếp giữa Việt Nam và Mỹ, không qua trung gian. Việt Nam độc lập, tự chủ quyết định mọi vấn đề trong quá trình đàm phán, cả về nội dung, hình thức, bước đi của đàm phán.

Ngay từ những ngày đầu, khi Mỹ từng bước leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, Việt Nam đã đề ra những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho đàm phán, đó là lập trường 5 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (ngày 22-3-1965) và tuyên bố 4 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 8-4-1965). Vị trí quan trọng của đấu tranh ngoại giao ngày càng được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 12 (tháng 12-1965), Nghị quyết số 13 (tháng 1-1967), Nghị quyết số 14 (tháng 1-1968) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Nêu cao ngọn cờ kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, Đảng ta không ngừng mở rộng mặt trận quốc tế ủng hộ Việt Nam. Ngày 24-1-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới 66 vị nguyên thủ quốc gia (bao gồm cả nước lớn) nêu rõ tính chất chính nghĩa trong cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống sự xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ. Ngay sau đó, chính phủ các nước đã bày tỏ thái độ dứt khoát trong việc ủng hộ Việt Nam, lên án sự xâm lược cùng chiến dịch lừa gạt của đế quốc Mỹ.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, ngày 3-4-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra tuyên bố sẵn sàng cử đại diện tiếp xúc với Mỹ để xác định việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom, bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhằm đi tới giải quyết vấn đề Việt Nam. Khi Mỹ lảng tránh vấn đề bằng cách trì hoãn việc thỏa thuận về địa điểm, Việt Nam đã đề nghị hai bên nói chuyện chính thức ngay tại Thủ đô Paris. Đề nghị hợp tình, hợp lý của Việt Nam khiến Mỹ không còn đường lùi, buộc phải chấp nhận tình hình và ngồi vào bàn đàm phán Paris một cách bị động từ tháng 5-1968. Cuộc đàm phán diễn ra tại Thủ đô Paris là trận địa chủ yếu của cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam, tác động mạnh mẽ và kịp thời đến dư luận Mỹ và phương Tây trong việc giải thích lập trường chính nghĩa của ta, phê phán và bóc trần những luận điệu sai trái, phi nghĩa của đối phương.

Với bản chất ngoan cố, Mỹ yêu cầu Hội nghị Paris là hội nghị giữa hai phía: Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với dụng ý phủ nhận vai trò độc lập của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; Việt Nam đã kiên trì nguyên tắc, vận dụng sách lược linh hoạt, đồng thời lợi dụng những mâu thuẫn trong nội bộ Mỹ để buộc chính quyền Mỹ phải chấp nhận hội nghị bốn bên có sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam với tư cách là một bên độc lập và bình đẳng với các bên khác. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của nhân dân ta. Tuy nhiên, Mỹ và chính quyền tay sai vẫn tìm cách phá hoại, cản trở công việc của Hội nghị Paris, với chủ trương vừa tham gia Hội nghị Paris vừa thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, rút quân “nhỏ giọt”, kéo dài chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, lừa gạt dư luận Mỹ và thế giới, nhằm tạo ra một thế mạnh trên bàn đàm phán.

Ngày 8-5-1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm nhằm bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, đòi Mỹ chấm dứt xâm lược, rút hết và không điều kiện quân Mỹ cùng chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân miền Nam tự quyết định chế độ chính trị của mình. Đấu tranh ngoại giao và hoạt động quốc tế của Việt Nam tại Thủ đô Paris, nhất là từ khi có giải pháp toàn bộ 10 điểm, sau này là đề nghị 7 điểm của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới; từ đó, ngày càng phát huy sức tiến công, thế mạnh của Việt Nam trên các mặt trận, nêu cao thiện chí và chính nghĩa của ta.

Trải qua thời gian dài đàm phán, ngày 8-10-1972, phái đoàn Việt Nam gửi cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam”, với sự nhất trí của các bên, nhưng đến ngày 22-10-1972, phía Mỹ lật lọng, viện dẫn chính quyền Sài Gòn đòi sửa bản dự thảo, khiến cuộc đàm phán rơi vào thế bế tắc. Tuy nhiên, thất bại thảm hại của Mỹ trong cuộc đối đầu lịch sử 12 ngày đêm “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” đã khiến chính quyền Tổng thống Mỹ Richard Nixon và lực lượng ngụy quyền hiếu chiến bị giáng một đòn đau về quân sự, chìm sâu dưới làn sóng phẫn nộ của nhân dân thế giới, buộc phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán Paris. Trên thế thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ vững những nội dung của dự thảo, buộc Mỹ tiếp tục phải ký kết Hiệp định Paris vào ngày 27-1-1973. Việc ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là thắng lợi tổng hợp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, nhất là trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Với thắng lợi này, dân tộc ta đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, tạo điều kiện thuận lợi để tiến tới mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Theo Hiệp định Paris, các nghị định thư, các thỏa thuận, công hàm của Tổng thống Mỹ R. Nixon gửi tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 30-1-1973(2), chúng ta đã đạt được bốn yêu cầu chính, đó là: Mỹ phải tôn trọng độc lập, thống nhất của Việt Nam; Mỹ phải chấm dứt xâm lược Việt Nam; Mỹ phải thừa nhận ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát; Mỹ phải đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở hai miền Việt Nam.

Thứ hai, thắng lợi của tình đoàn kết, mối quan hệ hữu nghị, giúp đỡ nhiều mặt của các nước lớn đối với Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, chúng ta đã đề ra mục tiêu tăng cường tập hợp lực lượng, tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân chủ, các tổ chức tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới để bảo vệ độc lập dân tộc. Trong đó, việc đẩy mạnh quan hệ với các nước lớn được khẳng định là tiếp tục phát triển và củng cố tình hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và tất cả các nước dân chủ khác; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 mở rộng (khóa II) cũng khẳng định “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á”(3). Thực tiễn đã chứng minh, sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và một số nước khác dành cho Việt Nam hết sức to lớn, trên nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự, kinh tế và ngoại giao.

Đảng và Nhà nước Liên Xô nhiều lần khẳng định lập trường kiên quyết ủng hộ Việt Nam; những chuyến thăm của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đến Việt Nam vào tháng 2-1965 và đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam thăm Liên Xô vào tháng 4-1965 đã thắt chặt tình đoàn kết, gắn bó, mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Thể hiện sự quyết tâm đó, ngày 23-9-1967, Liên Xô ký kết viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam; Liên Xô không chỉ dành cho Việt Nam những khoản viện trợ và giúp đỡ to lớn cả nhân lực, vật lực, mà còn lên tiếng ủng hộ Việt Nam thông qua các diễn đàn quốc tế, hội thảo, tiếp xúc báo chí; luôn nêu cao vai trò đi đầu, làm nòng cốt tập hợp lực lượng ủng hộ Việt Nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đàm phán Paris và đấu tranh thống nhất đất nước. Tại Hội nghị lãnh đạo Đảng và Nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa diễn ra ở Thủ đô Moscow (ngày 3-12 đến 4-12-1969), Liên Xô và 6 nước xã hội chủ nghĩa(4) đã ra một bản tuyên bố nhất trí lên án cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và ủng hộ, giúp đỡ tối đa cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam; kịch liệt phản đối Chính phủ Mỹ tiếp tục chiến tranh xâm lược và gây ra những tội ác man rợ chống lại nhân dân Việt Nam, tố cáo lập trường ngoan cố của Mỹ làm cho Hội nghị Paris không tiến triển được(5).

Thời kỳ này, Trung Quốc cũng viện trợ số lượng lớn hàng hóa và tài chính cho Việt Nam; tổ chức nhiều cuộc mít-tinh lớn lên tới hàng triệu người tham gia lên án Mỹ, ủng hộ Việt Nam; cử các chuyên gia giúp xây dựng những công trình quân sự, dân sự, đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam để xây dựng đất nước, phục vụ kháng chiến. Sự ủng hộ và giúp đỡ của các đồng minh chiến lược lớn là thế dựa vững chắc của Việt Nam về chính trị trên phạm vi quốc tế; là hậu thuẫn giúp Việt Nam tranh thủ thêm sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới; là thuận lợi lớn để Việt Nam tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, nâng cao vị thế, tạo thế trên bàn đàm phán; đồng thời, là nhân tố đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược.

Thứ ba, đây là thắng lợi của đối sách ngoại giao Việt Nam phù hợp với từng nước lớn, không để bị cô lập. Việt Nam bước vào đàm phán với Mỹ trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, Chiến tranh lạnh gay gắt, quan hệ Liên Xô - Trung Quốc căng thẳng, phong trào cách mạng thế giới khủng hoảng về đường lối, quan điểm… Trước tình hình đó, quan điểm nhất quán của Việt Nam vẫn là “giữ vững độc lập tự chủ, đồng thời phải cố gắng tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em. Phải độc lập tự chủ mới thắng được, nhưng phải biết đoàn kết với anh em, đừng để mình bị cô lập”(6). Việt Nam đã không ngừng hoạt động để tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc, để các nước lớn trên và các nước xã hội chủ nghĩa anh em hiểu rõ và ủng hộ đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lập trường đấu tranh, quyết tâm giành thắng lợi của nhân dân ta và giành cho ta sự viện trợ vật chất cũng như sự ủng hộ to lớn. Đó cũng là một đòn mạnh giáng vào âm mưu của Mỹ hòng chia rẽ, cô lập Việt Nam với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa.

Việt Nam vui mừng trước những thắng lợi to lớn về mọi mặt mà nhân dân Liên Xô và Trung Quốc đã giành được trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Nhìn chung, quan hệ giữa nước ta với các nước lớn xã hội chủ nghĩa và các nước dân tộc chủ nghĩa tiến bộ đã có những bước phát triển mới. Các nước đều ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta trên bàn đàm phán Paris và lên án sự xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam.

Đối với Mỹ, ngày 25-8-1969, trong thư trả lời Tổng thống Mỹ R. Nixon, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án mạnh mẽ chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã chà đạp các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; khẳng định khát vọng thiết tha yêu chuộng hòa bình vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam; nhấn mạnh nhân dân Việt Nam quyết chiến đấu đến cùng, không sợ hy sinh, gian khổ để bảo vệ Tổ quốc và các quyền dân tộc thiêng liêng của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định giải pháp mà chúng ta đưa ra là hợp tình, hợp lý để giải quyết vấn đề Việt Nam, đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh xâm lược trong danh dự.

Trong bối cảnh chính quyền Tổng thống Mỹ R. Nixon thi hành chính sách ngoại giao ba chiều, liên tục gây sức ép đến các nước lớn nhằm tạo sức ép về ngoại giao, gây khó khăn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, ép ta đi vào đàm phán theo hướng có lợi cho Mỹ, để phá âm mưu trên, ta thẳng thừng bác bỏ quan điểm “đàm phán qua trung gian” của Mỹ, phê phán quyết liệt mưu đồ của Mỹ; đồng thời, chủ động, kiên quyết và khôn khéo để không trở thành “quân cờ” của các nước lớn, không để các nước khác mang xương máu của nhân dân Việt Nam để “mặc cả” với nhau vì lợi ích hẹp hòi của họ.

Tại Mỹ, chúng ta đã có sự kết nối chặt chẽ với phong trào chống chiến tranh Việt Nam. Phong trào phát triển liên tục, với quy mô mở rộng ra khắp các bang của nước Mỹ và nhận được sự ủng hộ, phối hợp rộng rãi của cộng đồng quốc tế; hình thức đấu tranh hết sức phong phú, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, tập đoàn tư bản, trong Quốc hội và cả Chính phủ Mỹ tham gia; các khẩu hiệu đấu tranh đều đòi nhà cầm quyền Mỹ phải chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút nhanh và rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Bên cạnh đó, tại Hội nghị Paris, nước Pháp chủ nhà đã thể hiện đúng vai trò trung lập; các phái đoàn của ta nhận được sự ủng hộ to lớn của Đảng Cộng sản Pháp, cũng như của nhiều chính đảng, đoàn thể các phong trào xã hội, đông đảo nhân dân Pháp và cộng đồng người Việt Nam sinh sống tại Pháp. Những đồng minh gần gũi nhất của Mỹ cũng không đồng tình với đường lối của Mỹ. Thống chế Anh quốc Bernard Law Montgomery đã đăng bài viết trên tờ Thời báo New York (ngày 5-7-1968) khẳng định: “Các ông không thể thắng được. Chính vì vấn đề ném bom Bắc Việt Nam mà toàn thế giới đã chống lại các ông”(7). Sự phản đối của nhân dân quốc tế và các giới chính trị, kinh tế đã tạo thành một sức ép mạnh mẽ, mang lại những thuận lợi tích cực cho ta trong cuộc đàm phán Paris và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Tựu trung, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đúng đắn của Đảng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ mạnh mẽ của các nước lớn và các nước xã hội chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hòa bình trên thế giới, không để ta bị cô lập, qua đó góp phần nâng cao vị trí quốc tế của đất nước, uy tín của dân tộc Việt Nam. Hiệp định Paris đã ghi dấu những thắng lợi to lớn, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; đồng thời là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên, toàn diện nhất, đầy đủ nhất ghi nhận các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam; là sự công nhận chính thức của quốc tế đối với nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.

Sau Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 đến nay, nếu như giai đoạn trước đây, chúng ta chỉ tập trung chú trọng quan hệ với các nước lớn trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, thì trước những thay đổi của tình hình thế giới, Việt Nam đã nhìn nhận, đánh giá thực chất để xác định lại chủ trương trong quan hệ với các nước lớn. Nghị quyết Đại hội VI (năm 1986) của Đảng nhấn mạnh “Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”(8); từ phá thế bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Việt Nam đã ngày càng coi trọng yếu tố cân bằng quan hệ giữa các nước lớn trong đường lối đối ngoại, ngoại giao. Đến nay, Việt Nam đã xây dựng được khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả cả nước lớn, trong đó có 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với tất cả các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt” (Lào, Campuchia, Cuba), 4 nước là đối tác chiến lược toàn diện (Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc), 17 nước đối tác chiến lược (bao gồm cả 4 đối tác chiến lược toàn diện) và 13 nước đối tác toàn diện; là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)...; từ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi, thu hút các nguồn lực của quốc tế đối với công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Trong quan hệ với các nước lớn, Đảng ta nhấn mạnh nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, tạo thế đan xen lợi ích giữa các nước với nước ta, tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, không để các nước lớn áp đặt hoặc lôi kéo vào những tập hợp lực lượng gây bất lợi trong quan hệ đối ngoại.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tiếp Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres thăm chính thức Việt Nam_Ảnh: TTXVN

Thực tiễn trong hơn 35 năm đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế đã minh chứng những bài học quý báu từ quá trình đàm phán, ký kết Hiệp định Paris vẫn còn vẹn nguyên giá trị và được vận dụng đúng đắn trong triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại của Việt Nam. Qua đó, chúng ta đã tạo dựng được hình ảnh, uy tín, vị thế của quốc gia ngày càng cao trong quan hệ với các nước lớn. Đối với nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình, nhân văn của nước ta đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của các nước lớn và cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã hai lần tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC, hai lần tín nhiệm được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009 và 2020 - 2021), là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc các nhiệm kỳ 2014 - 2016  và 2023 - 2025, là nơi được chọn tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên năm 2019... Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(9).

Thắng lợi của cuộc đàm phán và ký kết Hiệp định Paris cách đây tròn 50 năm đã để lại nhiều bài học quý giá và ý nghĩa sâu sắc, nhất là trong giai đoạn nước ta đẩy mạnh đồng bộ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, đặc biệt là cuộc xung đột Nga - Ukraine; cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trở nên phức tạp… Hội nhập quốc tế trong quá trình toàn cầu hóa vừa có nhiều cơ hội, vừa có nhiều thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nhất là quan hệ đối với các nước lớn, đòi hỏi Việt Nam cần có chính sách đối ngoại đúng đắn, kịp thời để thúc đẩy hội nhập quốc tế phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, nâng cao thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định quan điểm: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(10) và định hướng “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam”(11).

Để thực hiện các định hướng trên, tiếp tục phát huy những bài học của Hiệp định Paris, thực hiện chính sách “cân bằng nước lớn” và xem đó là lựa chọn tất yếu trong duy trì quan hệ với các cường quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần: 1- Tiếp tục quán triệt, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng về hoạt động đối ngoại(12), nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn, không để bị đẩy vào những tình thế bất lợi trong quan hệ quốc tế; 2- Thu hút đầu tư hiệu quả từ các nước, vùng lãnh thổ cho phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; 3- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, nắm chắc tình hình liên quan đến từng nước lớn, nhóm nước lớn, nhận thức và đánh giá đúng đối tác, đối tượng có liên quan trực tiếp đến độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia cả trước mắt và lâu dài để đề ra những chủ trương, quyết sách, phương thức ứng xử đúng đắn, phù hợp trong quan hệ đối ngoại; 4- Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước lớn, trên cơ sở vận dụng linh hoạt phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, phương thức vừa hợp tác, vừa đấu tranh một cách linh hoạt, có đối sách phù hợp với từng nước lớn, để các mối quan hệ đó không làm ảnh hưởng, xung đột với nhau, không để các nước hiểu lầm Việt Nam bắt tay với nước này, chống lại nước kia, gây phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc; 5- Quan tâm xây dựng tiềm lực quốc gia vững mạnh về mọi mặt, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế vì “Dân tộc cường thịnh, trường tồn - Đất nước phồn vinh, hạnh phúc”./.

-------------------

(1) Bao gồm 202 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và nhiều phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên khắp thế giới
(2) Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam (1968 - 1973), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 209
(3) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 20, tr. 66
(4) Bungari, Hungari, Rumani, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ba Lan và Séc
(5) Xem: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 273 - 274
(6) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 35, tr. 43
(7) Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 356
(8) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 561
(9), (10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25, 110, 117 - 118
(12) Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 1-4-2013, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, “Về thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổ định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”...