Xây dựng xã hội số trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
TCCS - “Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”[1]. Kỷ nguyên ấy là một bước tiến mới, có giá trị to lớn đối với đất nước ta để hướng tới các hoạt động kỷ niệm 100 năm kỷ niệm ngày thành lập Đảng, 100 năm ngày thành lập nước khi cơ đồ và vị thế quốc gia đang ngày càng được định vị trên trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, cách mạng công nghiệp lần thư tư với trọng tâm là chuyển đổi số quốc gia là quan điểm mang tính định hướng để toàn đảng, toàn dân, toàn quân chung sức, đồng lòng vì một xã hội hiện đại, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc. Trong khuôn khổ tuyến bài này, chúng tôi nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề xây dựng xã hội số ở Việt Nam để góp phần vào sự nghiệp chung của toàn dân tộc.
1. Xã hội, theo nghĩa hẹp là một phương diện của cấu trúc tổng thể gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; là tập hợp của các giai cấp, tầng lớp, đội ngũ, nhóm xã hội, gia đình và cá nhân con người liên kết với nhau thông qua các mối quan hệ xã hội và tương tác thường xuyên. Xã hội bao gồm các nhóm người sống chung trong một không gian và lãnh thổ nhất định, có các quy tắc, giá tri văn hóa chung với những mối quan hệ, quy tắc, giá trị và các yếu tố khác.
Với mỗi quốc gia, phát triển xã hội có vai trò quan trọng, nó gắn với sự phát triển của con người để hướng tới mục tiêu ấm no, hạnh phúc. Giải phóng con người gắn liền với phát triển xã hội, trong đó tập trung phát triển nhân cách làm người của mỗi cá nhân, sống có trách nhiệm với xã hội, đồng thời có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Như chủ tịch hồ Chí Minh đã mong muốn trong suốt cuộc đời mình: “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”[2].
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi phát triển xã hội là nhiệm vụ nòng cốt, có vai trò quan trọng, then chốt để giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bất công, được phát triển toàn diện cả về trí, lực, thẩm mĩ và đạo đức, giải phóng sức lao động và đem lại tự do cho con người; hướng tới tính chân, thiện mỹ trong đời sống của nhân dân. Phát triển xã hội chính là phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đáp ứng quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân.
Thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của công nghệ, của trí thông minh nhân tạo. Xét về khái niệm, xã hội số là xã hội tích hợp công nghệ số vào mọi mặt đời sống con người. Xã hội số bao gồm công dân số và văn hóa số, trong đó công dân số là công dân có khả năng sử dụng công nghệ số để học tập, làm việc và tham gia các hoạt động trên môi trường số. Xã hội số bản thân là một xã hội trên môi trường số, là một trụ cột quan trọng trong phát triển quốc gia số. Xã hội số tạo ra cơ hội để phát triển kinh tế, trên cơ sở của chuyển đổi số, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của quốc gia tăng lên, người dân được tự do trong phát triển kỹ năng, mở rộng khả năng tiếp cận thông tin, lao động, kinh doanh; xã hội số giúp thúc đẩy học tập, giáo dục thông qua các dịch vụ trên môi trường internet; cải thiện dịch vụ công của cơ quan nhà nước, giúp người dân dễ dàng tiếp cận đến các dịch vụ của nhà nước; giúp quốc gia thuận lợi trong quản lý tài nguyên; giúp kết nối, tạo điều kiện giao lưu, học hỏi, trao đổi văn hóa, mở rộng tầm hiểu biết của con người đồng thời góp phần tạo ra các giá trị văn hóa mới phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, xã hội số cũng tạo nên các nền tảng để phát huy, bảo tồn các giá trị văn hóa tốt đẹp của quốc gia, dân tộc.

Hướng tới kỷ nguyên mới, Đảng và Nhà nước ta đã và đang quyết liệt trong triển khai các nhiệm vụ đột phá như theo chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản nhằm xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và trên thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dâu giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu”, trong đó chuyển đổi số đã xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số. Chính vì thế, cần hình thành quốc gia số với các trụ cột chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
Tại Quyết định số 411/QĐ-TTg, ngày 31-3-2022, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, Xã hội số là xã hội tích hợp công nghệ số một cách tự nhiên và mặc định vào mọi mặt của đời sống, người dân được kết nối, có khả năng tương tác và thành thạo kỹ năng số để sử dụng các dịch vụ số, từ đó, hình thành các mối quan hệ mới trong môi trường số, hình thành thói quen số và văn hoá số. Thực tế cho thấy, xã hội số đã và đang thay đổi toàn diện cách thức con người tương tác với nhau. Ở xã hội số, mọi mặt của đời sống con người bao hàm cả các giá trị truyền thống đến hiện đại. Việt Nam với hơn 100 triệu dân đang trong giai đoạn dân số vàng, với 69% dân số ở trong độ tuổi lao động đang có những cơ hội thuận lợi cho tiến trình xây dựng và phát triển, góp phần nâng cao tăng trưởng kinh tế cho đất nước. Song song đó, số người dùng Internet và sử dụng công nghệ số trong xã hội đang ngày càng tăng, người dân thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ. Đây cũng là tiền đề và điều kiện thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy và phát triển xã hội số thành công. Xây dựng và phát triển xã hội số sẽ thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số quốc gia, tạo nên những cơ hội cho sự phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí cho người dân và tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các ngành kinh tế mới như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử, dịch vụ số…
Xã hội số cũng giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thông qua các dịch vụ thông tin, tiếp cận các tiện ích xã hội nhanh chóng và hiệu quả hơn. Xã hội số cũng góp phần xây dựng và thúc đẩy giáo dục với sự trợ giúp của Internet và không gian mạng, thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục và mở ra mô hình giáo dục mới hiện đại, thông minh và hướng tới người học, nhu cầu của thị trường, của xã hội dựa trên các nền tảng số. Trong xã hội số, vấn đề quản trị tài nguyên cũng là một cơ hội để Việt Nam chuyển mình trong kỷ nguyên mới, với các công nghệ hiện đại như internet vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối… cũng tạo nên các sản phẩm mới, thúc đẩy văn hóa số phát triển. Xã hội số tạo ra một môi trường để con người số có khả năng kết nối, giao lưu, học hỏi và nâng cao kiến thức, tạo ra môi trường mới để tạo nên giá trị văn hóa mới trên nhiều công cụ, kỹ thuật mới.
Xã hội số đang thay đổi cách chúng ta giao tiếp, tương tác và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày. Xã hội số mang lại nhiều cơ hội và thách thức mới. Để đảm bảo rằng lợi ích của công nghệ số được tối ưu hóa và rộng rãi lan tỏa trong xã hội, cần thiết chúng ta phải dần thay đổi về tư duy, cách tiếp cận vấn đề, và quản lý dữ liệu. Từ đó sẽ góp phần hình thành các hành lang pháp lý cũng như tạo ra các điều kiện, nguồn lực thích ứng và phát huy tối đa các tác động tích cực của quá trình chuyển đổi xã hội số tới phát triển xã hội Việt Nam bền vững hiện nay. Phát triển xã hội số toàn diện giúp cải thiện dân trí, chất lượng cuộc sống của người dân, thúc đẩy sự tham gia tích cực các hoạt động xã hội, dịch vụ công trên nền tảng số, thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội thuận lợi hơn. Hiện thực hoá mục tiêu “Chuyển đổi quốc gia”, đưa Việt Nam trở thành quốc gia số an toàn, nhân văn và rộng khắp đã trở thành các yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Trụ cột quan trọng của xã hội số là văn hóa số và con người số, trong đó văn hóa số theo PGS, TS. Nguyễn Duy Bắc là là phương thức và hoạt động văn hóa (sáng tạo, lưu giữ, truyền bá, tiếp nhận, thưởng thức,...) của cá nhân và cộng đồng trên cơ sở ứng dụng các phương tiện và công nghệ kỹ thuật số; là các quy tắc ứng xử (lối sống, ứng xử, phương cách giao tiếp, làm việc,...) và chuẩn mực đạo đức, pháp luật của con người trong môi trường số. Văn hóa số giúp mọi người tiếp cận lượng tri thức văn hóa đồ sộ của toàn nhân loại đã hình thành trong quá trình lịch sử và sản sinh ra những giá trị văn hóa mới trên nền tảng số. Con người số là những người có thể sử dụng được công nghệ thông tin, truyền thông thông minh vào hầu hết tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, từ cấp địa phương cho đến cấp quốc gia, và toàn cầu với các yếu tố cấu thành là những người có thể sử dụng được công nghệ thông tin, truyền thông thông minh vào hầu hết tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, từ cấp địa phương cho đến cấp quốc gia, và toàn cầu. Văn hóa số và con người số có mối quan hệ cơ hữu, biện chứng với nhau để tạo nên những giá trị mang tính đặc thù cho mỗi quốc gia, dân tộc. Đối với Việt Nam, đó là một xã hội có văn hóa số “phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[3] và có con người số phát triển toàn diện, có tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lich sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của con người Việt Nam.
2. Dưới ngọn cờ của Đảng, Nhân dân ta đã kế thừa, phát triển và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, không ngừng sáng tạo những giá trị văn hoá mới thấm đẫm tinh thần yêu nước và lý tưởng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đất nước và tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, đưa đất nước vững bước trong xu thế phát triển của nhân loại tiến bộ. Đó là sức mạnh hiện thực của văn hóa Việt Nam. Văn hoá truyền thống dân tộc được lớp lớp các thế hệ tiếp nối, phát triển, gìn giữ và phát huy. Đến Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”; “(…) nhiệm vụ của văn hoá mới là, phải lấy hạnh phúc của đồng bào, sự nghiệp đấu tranh của dân tộc làm nội dung phản ánh, đồng thời phải tiếp thu những kinh nghiệm của văn hoá xưa và nay để xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam với ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng”. Qua gần 40 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm gắn kết hài hòa giữa văn hóa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, xác định kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển như trong nhiều bài viết, bài phát biểu, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhiều lần nhắc lại và nhấn mạnh: “Phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
Chuyển đổi số là phương thức của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, là phương thức khách quan của thời đại, tạo ra một phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất số. Chuyển đổi số đã và đang tạo nên các đột phá lớn trong sự phát triển của quốc gia, đồng thời cũng là thời cơ để các quốc gia, trong đó có Việt Nam rút ngắn quá trình phát triển. Chuyển đổi số tạo nên các phương thức sản xuất mới với lực lượng sản xuất hiện đại, với các quan hệ sản xuất phù hợp giúp thúc đẩy tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành, nghề và khả năng tiếp cận thị trường dựa trên các nền tảng kỹ thuật, công nghệ hiện đại gắn kết với chuỗi cung ứng toàn cầu, tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu và chi phí sản xuất, quản lý; từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, mang lại lợi ích to lớn cho nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đã thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia với các trụ cột chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, giúp phát triển kinh tế, công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, văn hóa, du lịch, dịch vụ, logistics... Cuộc cách mạng số đã và đang làm thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ và sâu sắc tới mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, thúc đẩy sự phát triển của mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội, con người với tự nhiên. Cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới lĩnh vực văn hoá, con người; làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi, lối sống của con người, từ đó hình thành văn hoá số.
Chuyển đổi số đã tạo ra một môi trường văn hóa mới của con người, đó là môi trường số, môi trường trên internet, môi trường ảo, bên cạnh môi trường thực mà chúng ta đã, đang sống quen thuộc, Facebook, Twitter, Youtube, Instagram, Zalo, Tik Tok... đã trở thành các kênh thông tin thu hút công chúng và trở thành hiện tượng văn hóa mới, là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa đa dạng và phong phú, đưa văn hóa đến được mọi tầng lớp nhân dân, thu hẹp khoảng cách tiếp cận và thụ hưởng văn hóa giữa các vùng, miền trong nước và các khu vực trên thế giới. Các “nhà hát online”, “bảo tàng online”, “bảo tàng kỹ thuật số”, “thư viện số”, “Google book”, sách điện tử, sách nói, du lịch số, du lịch thông minh,... với các giải pháp marketing số trên truyền hình, mạng xã hội, các kênh trực tuyến thời gian qua đã được công chúng đón nhận, hưởng ứng và sử dụng tích cực.
Dưới tác động của chuyển đổi số và sự phát triển của nền kinh tế thị trường toàn cầu, nhiều lĩnh vực sáng tạo và sản xuất sản phẩm văn hóa đã được “công nghệ hóa”, “kinh tế hóa” và trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế thế giới. Các yếu tố văn hóa và yếu tố kinh tế, kỹ thuật, công nghệ ngày càng có sự gắn kết chặt chẽ. Và các ngành công nghiệp văn hóa đã ra đời và phát triển với ứng dụng công nghệ số vào quá trình sáng tạo, sản xuất, phổ biến sản phẩm văn hóa và kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa ngày càng phong phú và đa dạng của người dân, đem lại lợi ích kinh tế cao. Văn hóa số tạo ra khả năng khai thác, trao đổi, truy cập các nguồn thông tin số, khả năng giao tiếp, tiếp nhận thông tin trong môi trường số, kỹ năng số, hoạt động kinh doanh, mua bán hàng hóa trên không gian mạng, chuẩn mực, giá trị đạo đức dưới tác động của môi trường số, bảo vệ thể chất và tâm lý trước ảnh hưởng từ môi trường số, quyền và trách nhiệm của công dân trong môi trường số, an toàn, an ninh thông tin, định danh và xác thực, bảo đảm quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân trong môi trường số.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Đảng khẳng định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại”[4]. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa”[5]. Ngày 8-9-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trong đó xác định tập trung phát triển 12 lĩnh vực công nghiệp văn hóa[6]. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng điểm, trọng tâm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”[7]. Chúng ta cần phát huy tối đa lợi thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cách mạng số, chuyển đổi số để phát triển công nghiệp văn hóa, gia tăng khả năng tiếp cận sản phẩm văn hóa của các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng văn hóa, phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, tiếp thu thành tựu phát triển công nghiệp văn hóa của thế giới.
Trong thời đại cách mạng số, văn hóa số phải bao gồm bảo đảm an ninh văn hóa, an ninh con người, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã và đang triệt để sử dụng thành tựu về khoa học, công nghệ, sử dụng mạng xã hội, công nghệ số để gia tăng các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta trên tất cả lĩnh vực, trong đó trọng tâm là phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng và nền văn hóa dân tộc. Nhiều dịch vụ trên không gian mạng của nước ngoài tràn vào Việt Nam có nội dung vi phạm pháp luật, không phù hợp với nền tảng đạo đức, văn hóa, thuần phong, mỹ tục Việt Nam... Bên cạnh đó, không ít người dân chưa hiểu biết đúng đắn và đầy đủ về quyền tự do ngôn luận (đã được Hiến pháp và pháp luật quy định) nên đã có hành vi vu khống, bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự cá nhân và tổ chức, vi phạm pháp luật, gây tác động tiêu cực đến an ninh văn hóa, an ninh xã hội, đến thuần phong, mỹ tục, chuẩn mực đạo đức của xã hội. Vì vậy, cần tổ chức thực hiện nghiêm Luật An ninh mạng (năm 2018) và các quy định pháp luật có liên quan khác để quản lý môi trường và không gian mạng, nhất là có biện pháp, chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm minh, kịp thời, đủ sức ngăn chặn sai phạm trên môi trường mạng, môi trường văn hóa số. Cần có những giải pháp đồng bộ, toàn diện để nâng cao nhận thức và trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân, ý thức thượng tôn pháp luật và “năng lực quản trị bản thân” của mỗi tổ chức, doanh nghiệp và người dân khi tham gia hoạt động trong môi trường văn hóa số nhằm tránh hành vi lệch chuẩn và hành vi vi phạm pháp luật trên môi trường mạng. Đồng thời, các cấp ủy, chính quyền cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an ninh văn hóa, an ninh con người, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới cũng như đẩy mạnh hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng.
Kỷ nguyên mới, văn hóa số phải gắn liền với đẩy mạnh việc đưa di sản văn hóa lên môi trường số, hình thành di sản văn hóa số là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong xây dựng và lan tỏa văn hóa số. Việc hình thành di sản văn hóa số (bao gồm di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể) vừa giúp cho công tác lưu trữ, bảo tồn di sản văn hóa được lâu dài, không bị mai một bởi thời gian và các tác động vật lý khác, vừa thu hút người sử dụng, thụ hưởng được trải nghiệm trực tuyến, tiếp cận di sản văn hóa thuận lợi hơn bao giờ hết (có thể ở mọi lúc, mọi nơi). mặt trái và thách thức của công nghệ số, đặc biệt là các tác động tiêu cực của truyền thông xã hội, các cách thức thông tin giao tiếp trên không gian mạng với những “nguy cơ”, “bất trắc” khó lường... Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hóa số,... vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hóa”[8]. Vì thế, cần nắm bắt kịp thời các vấn đề xâm phạm bản quyền tác giả, sở hữu trí tuệ, an ninh quốc gia, an ninh thông tin, an ninh văn hóa, an ninh con người, tội phạm công nghệ cao, hay những sản phẩm thông tin lệch lạc, sai trái, chạy theo thị hiếu tầm thường...; từ đó có các biện pháp chủ động ứng phó và kiểm soát kịp thời, hiệu quả.
Có thể thấy, hiện nay, việc thực hiện chuyển đổi số, tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ để xây dựng, kiến tạo và lan tỏa văn hóa số sẽ tạo nguồn lực, động lực cho phát triển kinh tế số, xã hội số ở nước ta, đồng thời góp phần phát triển con người toàn diện, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.Văn hóa số không thay thế, triệt tiêu văn hóa thực tại, vốn đã gắn liền với đời sống xã hội và con người chúng ta hàng nghìn năm nay mà bổ sung một cách tích cực, làm phong phú và đa dạng, hiện đại nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng, góp phần vào việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế; từng bước gia tăng sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong bối cảnh mới. Văn hóa số phải thực sự đóng góp vào quá trình phát triển và xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phải “soi đường cho quốc dân đi” để đất nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sarawcsc dân tộc, tạo động lực để thực hiện khát vọng phát triển đất nước, hướng tới Việt Nam là quốc gia có dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu.
3. Con người, chủ thể cao quý nhất của mỗi quốc gia, dân tộc, là cái để phân biệt các quốc gia. Con người luôn là trung tâm, chủ thể được quan tâm nhất ở mọi thời điểm mọi giai đoạn lịch sử. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt con người trong mối quan hệ biện chứng thống nhất với giới tự nhiên và thực tiễn xã hội, “con người cũng tác động trở lại tự nhiên, cải biến tự nhiên và tạo cho mình những điều kiện sinh tồn mới”[9]. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào thì con người “luôn trong quá trình phát triển – quá trình phát triển hiện thực và có thể thấy được bằng kinh nghiệm – của họ dưới những điều kiện nhất định”[10].
Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hóa dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận dụng, phát triển một cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng về con người lên một tầm cao mới: ““Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”[11]. Con người là động lực của cách mạng, không chỉ là cá nhân riêng lẻ mà tất cả con người Việt Nam. Tư tưởng này của Người đã trở thành kim chỉ nam, thành chỉ đạo xuyên suốt sự nghiệp lãnh đạo giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã kế thừa tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng lý luận cho quan điểm phát triển con người của mình, ở đó con người là chủ thể có vai trò quan trọng, quyết định và là động lực để thúc đẩy sự vận động, phát triển; con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là chủ thể cải tạo, thay đổi giới tự nhiên, vừa là khách thể của quá trình nhận thức và cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và qua đó, cải tạo chính bản thân mình. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”[12], nghĩa là con người Việt Nam toàn diện với giá trị văn hoá Việt, con người Việt với những bản sắc không thể lẫn với dân tộc khác. Tuy nhiên, Đảng ta cũng xác trong điều kiện hiện nay cần “từng bước vương lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và hiện đại”[13] và “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt nam thật sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[14].
Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, sự ra đời của công nghệ số đã làm thay đổi cách tiếp cận về con người. Ở Việt Nam, chúng ta đang xây dựng quốc gia số với các trụ cột là chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế-xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số", trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.” Chúng ta có thể thấy rằng, chuyển đổi số gắn liền với mục tiêu là phục vụ con người, vì con người với trọng tâm cho công tác phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số.
Con người số có thể được hiểu là con người tham gia hoạt động trên môi trường số, có kỹ năng số, có trách nhiệm, tích cực, chủ động, sáng tạo trong tham gia xã hội số.
Đối với mỗi quốc gia và các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, con người số tạo nên các công dân số. Công dân số khi hoạt động trên môi trường số cần đảm bảo các nguyên tắc cơ bản như tôn trọng và có trách nhiệm trong các giao dịch, tương tác trực tuyến; có kiến thức và kỹ năng trong sử dụng và đánh giá thông tin một cách nghiêm túc; tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn và hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động trực tuyến; đảm bảo quyền tự do ngôn luận (quyền riêng tư và tự do ngôn luận) và trách nhiệm (tôn trọng và trách nhiệm giải trình); quản lý thời gian sử dụng phù hợp để đảm bảo sức khoẻ tinh thần và thể chất trên môi trường số; đảm bảo an toàn, an ninh thông tin cho các nhân và cộng đồng; sử dụng công nghệ một cách an toàn, có đạo đức, có trách nhiệm và chủ động, sáng tạo trong thúc đẩy phát triển môi trường số toàn diện, tích cực. Con người số, vốn mang trong mình giá trị con người, tuy nhiên trong môi trường số, các giá trị này đã không còn chỉ giới hạn ở phạm vị địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Con người số hiện nay đã có thể tham gia vào các hoạt động xuyên quốc gia khi mọi thông tin được cung cấp, truyền dẫn, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua hạ tầng công nghệ thông tin, không phụ thuộc thời gian, không gian hay vị trí địa lý. Thông qua môi trường số, con người số có thể có các trải nhiệm xã hội, tương tác, trao đổi ý kiến, chia sẻ thông tin, tranh luận hoặc đánh giá những hiện tượng, sự kiện liên quan đến đạo đức, chinh trị, kinh tế, xã hội, văn hoá hoặc xung đột quân sự, chiến tranh, an ninh truyền thống hay an ninh phi truyền thống, chính vì thế, con người số hiện nay đối mặt với những khó khăn, thách thức và cơ hội nhất định, đó là: con người cần có năng lực về thông tin và dữ liệu số với những kỹ năng tạo lập dữ liệu, tiếp nhận, kiểm tra, lọc thông tin, đánh giá dữ liệu và quản lý dữ liệu một cách đúng đắn; cần có các kỹ năng tương tác qua công nghệ số, thực hiện quyền công dân số, cộng tác qua lại trên nền tảng số và thực hiện các quy tắc ứng xử trên môi trường số; bên cạnh đó, con người số cần có năng lực tự bảo vệ và bảo vệ an toàn cá nhân, bảo vệ giá trị quốc gia, dân tộc, bảo vệ cộng đồng trước những tiêu cực trên môi trường số. Hiện nay, môi trường số đã tạo nên những thách thức để phát triển toàn diện và bền vững, công dân số khi sử dụng công nghệ đã và đang ngày càng phụ thuộc vào dữ liệu. Với khối lượng dữ liệu khổng lồ trên internet, đồng thời internet hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, hàng giây đang có hàng tỷ giao dịch khiến dữ liệu ngày càng “nở” ra một cách nhanh chóng. Internet cũng khiến cho con người số “chết đuối trong thông tin nhưng chết đói tri thức”, hàng ngày chúng ta tiếp cận rất nhiều thông tin khác nhau nhưng có lúc thông tin bị báo hoà, thiếu chiều sâu và tiếp cận hiểu biết về vấn đề. Con người, bất cứ khi nào bắt đầu tham gia đăng ký địa chỉ email, sử dụng thương mại điện tử hay bất cứ hoạt động nào trên môi trường số đều bắt đầu được coi là con người số. Thực tiễn cho thấy, hiện nay trên môi trường số, nhiều thông tin cổ xuý cho hành vi lệch chuẩn, xuất hiện nhiều loại tội phạm mới trên môi trường mạng, theo đuổi chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, thủ đoạn, bè cánh, lối sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý, sống thờ ơ, vô cảm, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai trái, tiêu cực không dám đấu tranh, không dám can ngăn...; sự vô cảm, manh động, coi thường giá trị con người, đạo đức gia đình, học đường, quan hệ gia đình, xã hội đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Trên không gian số, không thiếu những hành vi cổ xuý cho lối sống hưởng thụ, buông thả, xem thường các giá trị truyền thống khá phổ biến dẫn tới các tội phạm ngày càng trẻ hóa, quan hệ giữa con người với con người ngày càng lỏng lẻo, con người đang ngày càng trở nên ích kỷ, lạnh lùng, vô cảm với những vấn đề xung quanh...; con người số trong nhiều trường hợp coi sự tương tác, hình ảnh trên thế giới ảo là duy nhất, là quan trọng đến mức đánh đổi con người thật, các mối quan hệ thật, thậm chí là danh dự của bản thân; văn hoá ứng xử đi ngược lại với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, trong đó tràn lan những câu từ nói tục chửi bậy, “bóc phốt”, moi móc vi phạm đời sống riêng tư… đang gióng lên hồi chuông cảnh báo cho các cấp, các ngành về giá trị con người. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng công nghệ số để tuyên truyền, bôi nhọ, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ngày càng manh động và phức tạp.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu chỉ đạo: “Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia – dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”. Ở Việt Nam, những công dân số đầu tiên xuất hiện khi đất nước ta kết nối với mạng lưới internet toàn cầu năm 2017. Con người số, trong bối cảnh mới, cần định vị mình trong hệ giá trị quốc gia để tận dụng thế mạnh của kỹ thuật, công nghệ để tự bản thân mình phải có khát vọng cống hiến, khát vọng phát triển đất nước; góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người Việt; xây dựng hệ giá trị gia đình, hệ giá trị quốc gia và hệ giá trị dân tộc Việt để phát triển đất nước, có tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; có ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo pháp luật. Xây dựng con người số Việt Nam cần gắn liền với xây dựng hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị quốc gia. Trong đó, hệ giá trị gia đình của con người số cần gìn giữ, phát huy hệ giá trị tốt đẹp về tình yêu thương, sự hiếu thuận, hòa hợp, tôn trọng, cần cù, sáng tạo, duy trì được sự gắn kết các thành viên dựa trên nền tảng tình cảm, sự thủy chung, đức hy sinh và tinh thần trách nhiệm; hệ giá trị văn hoá với những giá trị cốt lõi: ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc; hệ giá trị quốc gia là những giá trị cốt lõi, phản ánh những khát vọng, mong cầu, mục tiêu chung của cả quốc gia, được kết tinh từ quá khứ, phát huy vai trò trong hiện tại và có định hướng tới tương lai, làm nền tảng để điều tiết, dẫn đạo sự phát triển của đất nước, là thực hiện “Dân giàu, hạnh phúc, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trên cơ sở hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam…
Mỗi con người số, cần khẳng định những mặt tích cực; lên án, phê phán cái xấu, cái ác, cái giả, có bản lĩnh đấu tranh, phản bác trước những thông tin xấu, độc, lệch chuẩn; khẳng định cái đúng, cái tốt, cái đẹp, lan toả các tấm gương tích cực để xây dựng đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh, đậm bản sắc dân tộc Việt; truyền cảm hứng tích cực cho xã hội. Trong kỷ nguyên mới, môi trường số ở Việt Nam phải thông minh, an toàn và bền vững, phục vụ phát triển công dân số để đưa đất nước vươn mình trở thành quốc gia có dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
5. Kỷ nguyên mới của đất nước đang bắt đầu với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, để sánh vai với các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong đợi. Trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo, xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng xã hội “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”[15] luôn được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta chú trọng và thúc đẩy. Xã hội Việt Nam được Đảng ta khẳng định là xã hội xã hội chủ nghĩa, “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”[16].
Kỷ nguyên mới, xã hội Việt Nam được xây dựng gắn liền với hệ giá trị quốc gia, văn hóa, gia đình, con người và cộng đồng, trong đó công nghệ số là phương thức, là động lực để xã hội số phát triển. Trong bối cảnh đó, quan điểm, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục là kim chỉ nam, ánh sáng soi đường; là cơ sở để tư duy, tìm tòi lời giải đáp cho những vấn đề nảy sinh từ thực tế,... trong công cuộc hoàn thiện xã hội nói chung, xã hội số nói riêng hướng tới xã hội tươi đẹp, tiến bộ, hạnh phúc.
Xây dựng xã hội số, cần gắn liền với quá trình đổi mới, phát huy hiệu lực, hiệu quả, trong sạch, vững mạnh; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức trong hệ thống chính trị; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xã hội số cần gắn với phát triển văn hóa - xã hội bền vững, xây dựng, phát huy, bảo tồn nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở nâng cao chỉ số hạnh phúc của từng gia đình, phát triển con người toàn diện cả về trí tuệ, nhân cách và thể lực, tạo nền tảng cho phát triển bền vững, trong đó tập trung xây dựng và phát triển văn hoá số và con người số.
Văn hoá số trong kỷ nguyên mới cần đảm bảo kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống, giữ gìn bản sắc dân tộc, phải là giá trị soi đường cho quốc dân đi”, là sức mạnh nội sinh để đất nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực để thực hiện khát vọng phát triển đất nước, hướng tới Việt Nam là quốc gia có dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Con người số cần gắn liền với xây dựng hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị quốc gia; cần gìn giữ, phát huy hệ giá trị tốt đẹp về tình yêu thương, sự hiếu thuận, hòa hợp, tôn trọng, cần cù, sáng tạo, duy trì được sự gắn kết các thành viên dựa trên nền tảng tình cảm, sự thủy chung, đức hy sinh và tinh thần trách nhiệm; hệ giá trị văn hoá với những giá trị cốt lõi: ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc; hệ giá trị quốc gia là những giá trị cốt lõi, phản ánh những khát vọng, mong cầu, mục tiêu chung của cả quốc gia, được kết tinh từ quá khứ, phát huy vai trò trong hiện tại và có định hướng tới tương lai, làm nền tảng để điều tiết, dẫn đạo sự phát triển của đất nước, là thực hiện “dân giàu, hạnh phúc, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trên cơ sở hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam…
Thực tiễn phát triển đất nước giai đoạn hiện nay đặt ra nhiều vấn đề, thách thức mới, vô cùng phong phú, đồng thời cũng hết sức phức tạp. Trong bối cảnh đó, quan điểm, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học mà Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển xã hội để lại vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục là kim chỉ nam, ánh sáng soi đường; là cơ sở để tư duy, tìm tòi lời giải đáp cho những vấn đề nảy sinh từ thực tế... trong công cuộc hoàn thiện xã hội, trong đó có xã hội số tốt đẹp ở Việt Nam hiện nay. Để xây dựng xã hội số một cách an toàn, bền vững, cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp trọng tâm sau đây:
Thứ nhất, triển khai, thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, với trọng tâm xây dựng, phát triển giá trị văn hoá, xã hội, con người Việt Nam; xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý phát triển xã hội số, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và cơ chế thực hiện pháp luật hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc “thượng tôn” Hiến pháp và pháp luật, lấy pháp luật làm căn cứ điều chỉnh các mối quan hệ trên môi trường số.
Thứ hai, quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới hướng tới phát triển hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị con người bền vững.
Thứ ba, xây dựng cơ chế, chính sách phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hoá số bền vững; xây dựng hệ thống lý luận chỉnh thể, thực chứng về xã hội số theo từng lĩnh vực và cấp độ lãnh đạo, quản lý. Thực hiện đẩy mạnh việc đổi mới tư duy, thống nhất về tư tưởng và hành động trong hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội về sự cần thiết, tính tất yếu, phương thức, kỹ năng, nội dung, mục tiêu xây dựng xã hội số.
Thứ tư, thực hiện tổ chức, sắp xếp bộ máy tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, từ đó xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ nền tảng số, kinh tế số, xã hội số, chính quyền số, an toàn, an ninh số làm tiền đề để xây dựng và phát triển xã hội. Sử dụng công nghệ để tăng hiệu quả quản lý, tối ưu hoá hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ công, thúc đẩy công bằng xã hội, tất cả vì sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước, Nhân dân trong mục tiêu xây dựng đất nước ta “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Thứ năm, phát triển văn hoá số và con người số làm tiền đề để phát triển xã hôi số Việt Nam hiện đại, văn minh hướng tới nâng cao chất lượng sống của người dân, thúc đẩy sự tham gia tích cực, có trách nhiệm của người dân thông qua ứng dụng công nghệ số, đưa công nghệ số vào từng lĩnh vực của hệ thống chính trị; văn hoá số phải toàn diện, thống nhất, thấm nhuần tinh thần nhân văn, nhân ái, vị tha, nhân cách, danh dự, phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, phát triển các lĩnh vực văn hoá mới bền vì tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; con người số phải trách nhiệm, có ý thức, có tinh thần yêu nước, gắn kết hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị con người, “sống” trách nhiệm, tích cực, an toàn trên môi trường số.
Thứ sáu, đơn vị quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số (Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông) sau khi sắp xếp, tinh gọn cần xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn quốc gia về môi trường số, trong đó các tiêu chuẩn cần đảm bảo sự toàn diện, hướng vào mục tiêu phát triển văn hoá số và con người số bền vững; xây dựng hệ sinh thái số quốc gia trên cơ sở sử dụng các kỹ thuật, công nghệ mới như dữ liệu lớn, chuỗi khối, trí thông minh nhân tạo… để phát triển xã hội số, phát triển các dịch vụ số quốc gia, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin cho xã hội số, văn hoá số, con người số.
Thứ bảy, chú trọng đến mục tiêu và phương pháp trong giáo dục - đào tạo, phù hợp với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước, xây dựng và phát triển xã hội số an toàn, phát triển bền vững. Giáo dục đào tạo cần hướng đến mục tiêu phát triển con người, trong đó tập trung đổi mới giáo dục, đào tạo các lĩnh vực liên quan đến công nghệ số, môi trường số. Giáo dục phải hướng đến đổi mới, sáng tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu phát triển mới của kinh tế - xã hội. Giáo dục phải “đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”[17].
Thứ tám, sử dụng công nghệ số để “thẩm thấu”, phát triển hệ giá trị chính trị - xã hội, mô hình nhà nước và chính sách quốc gia để xây dựng sức mạnh mềm quốc gia, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia. Xây dựng sức mạnh mềm Việt Nam gắn liền với xây dựng xã hội số văn minh, hiện đại là phát huy những giá trị văn hóa vật chất, tinh thần của dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; lan tỏa các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam đến các quốc gia trên thế giới, đồng thời tăng cường uy tín, vị thế của dân tộc Việt Nam trong các quan hệ quốc tế./.
-----------------------------
[1] TBT, CTN Tô Lâm, Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, https://nhandan.vn/viet-nam-dang-dung-truoc-khoi-diem-lich-su-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-post832804.html
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr 294
[3] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 172
[4] Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 63
[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 130
[6] 12 lĩnh vực công nghiệp văn hóa là: Quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; du lịch văn hóa
[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 145
[8] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 169
[9] Mác và Ph.Ăngghen toàn tập. Tập 20. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2002, tr. 720
[10] C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập. Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 1995, tr. 38
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.130
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 47
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.143
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 136
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 294
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. XII
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.232-233
- Kinh tế Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2024: Thực trạng và triển vọng
- Nghị quyết số 57-NQ/TW và vai trò thúc đẩy đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Chuyển đổi số và những vấn đề đặt ra trong quản lý xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long
- Trí tuệ nhân tạo - cơ hội cho thành phố thời đại Hồ Chí Minh
- Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Gìn giữ, phát huy vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam