Kinh nghiệm giải quyết “bộ ba bất khả thi” nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh tác động bất lợi của kinh tế thế giới

GS, TS Trần Thọ Đạt
Nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân
08:56, ngày 08-03-2024

TCCS - Trong tình hình kinh tế thế giới diễn ra thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng lạm phát chỉ là tạm thời, nhưng đến nay, xu hướng lạm phát kéo dài là một thực tế ở khắp các nước trên thế giới. Việt Nam kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc điều chỉnh hợp lý quan hệ bộ ba biến số ổn định tỷ giá, tự do hóa dòng vốn và chính sách tiền tệ độc lập có ý nghĩa quan trọng trong điều hành của Chính phủ.

Kiểm soát lạm phát

Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian, phản ánh sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Các nguyên nhân gây ra lạm phát bao gồm: 1- Lạm phát do cầu kéo, do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng); 2- Lạm phát do chi phí đẩy, là chi phí của các doanh nghiệp, bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, thuế… Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất cũng tăng lên, vì thế, muốn bảo toàn lợi nhuận, mức giá của doanh nghiệp, thì mức giá chung của toàn nền kinh tế cũng sẽ tăng lên; 3- Lạm phát do cơ cấu, là có ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công “danh nghĩa” cho người lao động, nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh không hiệu quả, doanh nghiệp cũng phải theo xu thế buộc phải tăng tiền công cho người lao động. Nhưng vì kinh doanh chưa hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người lao động, doanh nghiệp buộc phải tăng giá thành sản phẩm để bảo đảm mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát; 4- Lạm phát do xuất khẩu, là khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm, tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu, nảy sinh lạm phát; 5- Lạm phát do nhập khẩu, là khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế giới tăng), giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên, khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát; 6- Lạm phát tiền tệ, là khi lượng cung tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước không lên giá so với ngoại tệ, hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.

Có rất nhiều cách để kiềm chế lạm phát được áp dụng, bao gồm: Ngừng phát hành tiền vào trong lưu thông; tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm lượng cung tiền vào thị trường - biện pháp này tác động bình đẳng đến các ngân hàng; nâng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi, biện pháp này sẽ làm hạn chế các ngân hàng thương mại mang các giấy tờ có giá đến ngân hàng nhà nước để chiết khấu, ngoài ra việc nâng lãi suất tiền gửi sẽ tạo sức hút khiến người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn; ngân hàng nhà nước áp dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm bán các chứng từ có giá cho các ngân hàng thương mại; ngân hàng nhà nước bán vàng và ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại; giảm chi ngân sách thông qua giảm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm đầu tư công; tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng nhằm cân bằng với tiền trong lưu thông; khuyến khích tự do mậu dịch; giảm thuế; các biện pháp khuyến khích hàng hóa nhập khẩu…

Cán cân thương mại, các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại

Nhập khẩu có xu hướng tăng khi tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng và thậm chí có thể tăng nhanh hơn. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước đắt tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại.

Xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy, nó chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập và sức cầu của các quốc gia bạn hàng.

Tỷ giá hối đoái là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi giá trị đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn, trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt hơn. Vì thế, việc giá trị đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu, dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi giá trị đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế, trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên.

Theo lý thuyết kinh tế học, “bộ ba bất khả thi” (Triangle of Impossibility) có nghĩa là một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô, gồm ổn định tỷ giá, tự do hóa dòng vốn và chính sách tiền tệ độc lập. Nói một cách dễ hiểu, trong điều hành một nền kinh tế mở thì không thể theo đuổi 3 mục tiêu trên cùng một lúc. Ví dụ, khi tự do hóa dòng vốn, tức là các dòng ngoại tệ từ bên ngoài dễ dàng vào và ra một nền kinh tế nào đó, sẽ làm cho tỷ giá biến động. Nếu muốn ổn định tỷ giá, ngân hàng trung ương buộc phải mua - bán ngoại tệ trên thị trường để giữ tỷ giá ổn định. Như vậy, rõ ràng muốn ổn định tỷ giá thì chính sách tiền tệ phải bị phụ thuộc...

Giao dịch tại một ngân hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh_Nguồn: thanhnien.vn

Kinh nghiệm kiểm soát lạm phát

Sử dụng chính sách tài khóa là chủ yếu

Trong số hai công cụ chính sách điều hành kinh tế vĩ mô ứng phó đối với các cú sốc là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong bối cảnh hiện nay, chính sách tài khóa ngược chu kỳ được cho là có nhiều dư địa và tác động trực tiếp, hiệu quả hơn trong việc ứng phó với diễn biến đại dịch khi nguyên nhân của suy thoái kinh tế không nằm ở rủi ro của hệ thống tài chính. Nhiều ý kiến cho rằng chính sách tài khóa thời gian qua ở Việt Nam khi so sánh hỗ trợ tính theo tỷ trọng trên GDP là thấp hơn nhiều so với con số 10%, 20%, thậm chí 40% của một số nước. Thực tế ở Việt Nam cho thấy hỗ trợ tài khóa không dựa nhiều vào tăng hỗ trợ tiền mặt như nhiều nước (chỉ hỗ trợ quy mô nhỏ đối với các nhóm yếu thế, đối tượng chính sách) vì việc hỗ trợ bằng tiền mặt quy mô lớn cho người dân sẽ gặp nhiều khó khăn về thủ tục. Do vậy, trước tính cấp bách của việc cần hỗ trợ kịp thời, hỗ trợ nhanh, việc ưu tiên giảm chi phí, như giảm thuế, phí (ví dụ giảm thuế môi trường với xăng, dầu, giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) đã được thực hiện nhanh và mạnh. Các chính sách miễn, giảm thuế được triển khai, trong đó đáng chú ý là việc giảm 2% thuế VAT, với một số mặt hàng có thuế suất giảm đến 10%. Việc thực thi các chính sách giảm thuế, miễn thuế và giãn thuế kịp thời đã tạo ra “hiệu ứng kép” của chính sách tài khóa đến nền kinh tế, thông qua việc kích thích tiêu dùng, tạo điều kiện để duy trì, phục hồi mở rộng hoạt động sản xuất của nền kinh tế. Phản ứng của chính sách tài khóa là kịp thời khi giá xăng dầu thế giới tăng cao trong một thời gian ngắn, Bộ Tài chính đã kịp thời đề xuất trình Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cắt, giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu xuống mức khung thuế thấp nhất có thể nhằm giảm giá xăng dầu, giảm áp lực lạm phát. Chính sách tài khóa đã góp phần quan trọng kiểm soát giá cả trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao, qua đó khẳng định được vai trò trong việc ứng phó với các cú sốc bất lợi về lạm phát và đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu.

Giảm thuế nhưng vẫn bảo đảm các cân đối ngân sách

Năm 2022 là năm giảm thuế nhiều nhất, cao nhất trong lịch sử của ngành thuế nhưng thu ngân sách dự kiến vẫn tăng 14,3% so với dự toán và tăng 2,9% so với kế hoạch năm 2021. Đặc biệt, thu nội địa vẫn đạt tăng trưởng 9,8%. Điều này là phù hợp về mặt kinh tế học, vì theo lý thuyết đường cong Laffer, khi nền kinh tế đang ở phía bên phải của đường cong hình chữ U ngược thể hiện mối quan hệ giữa quy mô thu thuế và thuế suất, việc giảm thuế sẽ kích thích các hoạt động kinh tế phát triển, cơ sở thuế của nền kinh tế tăng lên và “bù” được có dư phần thuế suất giảm. Kết quả là, mặc dù trong bối cảnh áp lực gia tăng chi tiêu lớn trong 2 năm vừa qua, bội chi ngân sách vẫn chỉ là 3,74%, ở mức dưới 4% so với nghị quyết của Quốc hội (nếu cộng cả gói phục hồi nền kinh tế thì bội chi ở mức 4,5%). Việc giảm thuế nhưng vẫn bảo đảm các cân đối ngân sách là một điều kiện quan trọng để duy trì tính bền vững của các biện pháp hỗ trợ tài khóa, tạo dư địa chính sách và “bộ đệm” cần thiết khi nền kinh tế phải tiếp tục ứng phó với các cú sốc bất lợi nếu có trong tương lai.

Kiểm soát giá

Nâng lãi suất để chống lạm phát là biện pháp “kinh điển”, nhưng hệ lụy có thể thấy là nền kinh tế sẽ đình đốn, thậm chí có thể suy thoái. Một câu hỏi cho nhiều chuyên gia kinh tế là ngoài việc nâng lãi suất, còn có biện pháp nào để chống lạm phát trong bối cảnh đặc biệt hiện nay không? Đáp án của câu hỏi này là khá nhiều ý kiến đề cập đến biện pháp kiểm soát giá, dù biện pháp này có vẻ như là đi ngược lại các quy luật kinh tế thị trường và một số nhà kinh tế hoài nghi về tính hiệu quả. Tuy nhiên, đây là tín hiệu quan trọng Nhà nước nên phát ra để người dân tin tưởng là Chính phủ đang có biện pháp chứ không phải là đang thả nổi thị trường cho doanh nghiệp lợi dụng tăng giá. Do vậy, việc kiểm soát giá đối với một số mặt hàng và việc cắt, giảm thuế cũng là biện pháp chống lạm phát hiệu quả.

Thực tế vừa qua của nhiều nước cho thấy, kiểm soát giá xăng dầu và năng lượng có tính chất then chốt, đóng góp quan trọng vào việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp, hỗ trợ cho việc ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm đời sống người dân. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực y tế, nếu thực hiện đúng lộ trình tăng giá dịch vụ y tế thì phải hoàn thành trong năm 2021, nhưng đến nay đã hoãn lại, điều này góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát. Trong rổ hàng hóa tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI), người dân Việt Nam tiêu dùng cho giáo dục và y tế với tỷ trọng lớn trong thu nhập (chiếm gần 12%). Chính vì việc hoãn lộ trình tăng giá của 2 nhóm hàng này đã góp phần giúp kiềm chế lạm phát trong năm 2023. Đối với giá điện, trong 4 năm qua, điện lực Việt Nam chưa tăng giá điện, mặc dù chịu ảnh hưởng do các nguồn nguyên liệu đầu vào, như xăng, dầu, than đang tăng giá cao.

Một lưu ý khi triển khai các gói hỗ trợ qua kiểm soát giá từ kinh nghiệm của nhiều nước là cần tránh hỗ trợ dàn trải, bình quân, liều lượng hỗ trợ thấp. Cùng với hỗ trợ theo diện rộng lúc đầu, trong giai đoạn phục hồi, các chính sách hỗ trợ và kiếm soát giá cần chọn lọc, tập trung hơn vào các doanh nghiệp có ảnh hưởng lan tỏa quan trọng đến các khu vực khác trong nền kinh tế để tránh tình trạng đổ vỡ dây chuyền trong nền kinh tế.

Kết hợp chặt chẽ với với chính sách tiền tệ

Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cần được thực hiện sao cho từng chính sách phát huy được hết hiệu lực và phối hợp với nhau có hiệu quả và sớm ổn định được kinh tế vĩ mô. Trong cơ chế phối hợp này, về nguyên tắc chính sách tài khóa vừa có tác dụng cứu trợ, vừa có tác dụng hỗ trợ, trong khi chính sách tiền tệ có tác dụng hỗ trợ là chủ yếu. Chính sách tài khóa cần phối hợp với chính sách tiền tệ nhằm bảo đảm dòng tiền, khả năng thanh khoản, đạt được cân bằng tối ưu của ít nhất hai biến số là tăng trưởng và lạm phát. Trong cơ chế phối hợp hai chính sách, cần có sự quyết đoán, đúng thời điểm, đủ liều lượng của chính sách tài khóa khi kích thích tổng cầu và khi có bất cứ nguy cơ đẩy lạm phát lên cao cần được “trung hòa” bằng điều chỉnh dòng tiền kịp thời thông qua hoạt động thị trưởng mở của chính sách tiền tệ. Mặt khác, khi chính sách tiền tệ cần được mở rộng để hỗ trợ thanh khoản, nguy cơ lạm phát lên cao, cần có sự hỗ trợ của chính sách tài khóa và kể cả chính sách thương mại, giá cả trong việc giảm thuế, giảm chi phí đầu vào, không tạo kỳ vọng lạm phát. Trong quá trình phối hợp các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, không có công thức chung và lời giải chắc chắn đúng. Bất kỳ phương án nào cũng đòi hỏi một mức độ quyết đoán và chấp nhận rủi ro, do vậy để có quyết định hợp lý nhất cần có sự phối hợp về hiệu lực, liều lượng và thời điểm, thời hạn của từng công cụ chính sách.

Khi dư địa của chính sách tài khóa bắt đầu đến giới hạn (không thể giảm thuế lâu dài được), thì việc kiểm soát lạm phát sẽ tùy thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ. Để bảo đảm kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu, chính sách tiền tệ cần được minh bạch và nhất quán. Về mối quan hệ với lãi suất, bài học của cuộc khủng hoảng năm 2008 - 2010 là tránh gây sức ép quá lớn lên chính sách tiền tệ trong việc xử lý mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng và biện pháp kéo lạm phát xuống nếu chỉ thông qua tăng lãi suất thì cái giá phải trả thậm chí còn cao hơn lạm phát vì nền kinh tế có thể rơi vào suy thoái sâu.

Kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại

Linh hoạt chuyển hướng

Thực tế, để đạt được kết quả tăng trưởng ấn tượng về kim ngạch xuất, nhập khẩu là nỗ lực lớn từ các doanh nghiệp và sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc chuyển hướng thương mại và tạo thị trường mới. Từ đầu năm đến nay, thị trường lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc đã siết chặt quy định nhập khẩu để chống dịch COVID-19, nhưng các doanh nghiệp đã nhanh chóng chuyển hướng và tận dụng các hiệp định thương mại thế hệ mới để gia tăng xuất khẩu (một trong những thị trường được khai thác tốt là khu vực Trung Đông, thị trường Austrailia có tăng trưởng khá tốt là do xuất khẩu tôm liên tục tăng trưởng dương…).

Năm năm gần đây, khi Việt Nam ký một loạt hiệp định thương mại tự do (FTA), hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) tăng trưởng mạnh; riêng hai mặt hàng dệt may và da giày, nhờ CPTPP, các doanh nghiệp Việt Nam đã có lợi thế về thuế quan từ 10 - 20% so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam trong năm 2022. Thông qua các hiệp định này, thị trường xuất, nhập khẩu được đa dạng hóa để bù đắp khó khăn tại các thị trường truyền thống, như Mỹ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); phát huy tiềm năng các thị trường đối tác hiệp định thương mại tự do (FTA); mở rộng thị trường sang khu vực Đông Âu, Trung Đông, Nam Mỹ, Nam Á, châu Phi; tham gia vào các chuỗi sản xuất và cung ứng, tiến tới xác lập vị trí cao hơn của Việt Nam trong chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu. Tìm kiếm những thị trường ngách, thị trường mới đối với các mặt hàng phù hợp với sở trường, năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam, như thị trường châu Phi, Trung Đông, Viễn Đông của Nga, Trung Á, Mỹ La-tinh…

Đẩy mạnh xúc tiến thương mại

Trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã chỉ đạo các cơ quan tham tán thương mại ở nước ngoài liên tục tổ chức các hoạt động giao lưu, xúc tiến thương mại ở hầu hết các thị trường và được tổ chức thường xuyên, rộng khắp, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Thông qua các kênh trao đổi trực tiếp với các thương vụ trên cơ sở nắm rõ nhu cầu xuất khẩu của doanh nghiệp địa phương, có sự phối hợp hiệu quả với các thương vụ trong quá trình kết nối doanh nghiệp nhập khẩu nước ngoài với doanh nghiệp xuất khẩu. Trong bối cảnh nguồn ngân sách dành cho công tác xúc tiến thương mại còn hạn chế, cần xây dựng phương án có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số ngành hàng hoặc một số nhóm mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa sang các nhóm hàng khác cùng loại.

Chủ động phòng ngừa biến động của tỷ giá

Đồng USD tăng giá khiến doanh thu xuất khẩu khi được quy đổi sang VND tăng, giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu được hưởng lợi. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn đều phải nhập khẩu nhiều nguyên phụ liệu, giá USD tăng khiến doanh thu bị bội chi về phí nhập khẩu, phí vận tải (logistics) và phải gánh khoản chênh lệch tỷ giá rất lớn nếu vay nợ bằng USD. Do vậy, các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu phải liên tục theo dõi những biến động tỷ giá và cập nhật tình hình tác động đến diễn biến của tỷ giá, như lạm phát, lãi suất, căng thẳng Nga - Ukraina. Từ đó, có thể chủ động lựa chọn thị trường xuất, nhập khẩu và đa dạng hóa sự lựa chọn đồng tiền thanh toán có lợi. Để phòng ngừa rủi ro tỷ giá, doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn những ngân hàng có khả năng tài trợ thương mại tốt, sử dụng những công cụ tài chính phái sinh, như mua bán ngoại tệ có kỳ hạn, các hợp đồng hoán đổi (swap), bảo đảm cho các hoạt động xuất, nhập khẩu được kế hoạch hóa khoa học. Ngoài ra, để hạn chế phần nào những thiệt hại do tỷ giá gây ra, bên cạnh các giải pháp điều hành của cơ quan quản lý, bản thân các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị ứng phó trước, như lập quỹ dự phòng biến động tỷ giá; hạn chế việc vay bằng ngoại tệ khi không có đủ nguồn trả; định kỳ đánh giá lại tài sản và nguồn vốn theo giá thị trường;...

Đẩy mạnh cải cách, tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động xuất, nhập khẩu

Cơ chế một cửa quốc gia của Việt Nam cho phép doanh nghiệp cung cấp thông tin cho nhiều cơ quan nhà nước trên một nền tảng duy nhất, hợp lý hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian thông quan tại cửa khẩu và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu đã được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới theo hướng cải cách, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các bộ, ngành bước đầu áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động kiểm tra chuyên ngành ở các mức độ, hình thức khác nhau. Nhiều bộ, ngành chuyển đổi thời điểm kiểm tra chất lượng đối với hàng hóa nhập khẩu từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Nhiều thủ tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành được điện tử hóa. Nhiều quy định chồng chéo trong kiểm tra chuyên ngành cũng được tháo gỡ.

Bốc, xếp hàng hóa xuất - nhập khẩu tại cảng Hải Phòng_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Kinh nghiệm về xử lý “bộ ba bất khả thi”: Lãi suất, tỷ giá, dòng vốn đầu tư nước ngoài

Hóa giải sức ép tỷ giá

Sự ổn định của thị trường ngoại hối là vô cùng quan trọng đối với niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thực tế điều hành cho thấy, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. Độ mở cửa nền kinh tế Việt Nam rất lớn nên những tác động của kinh tế thế giới đến thị trường tiền tệ, ngoại hối trong nước là điều tất yếu. Nguyên tắc chung là cần theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam luôn theo dõi sát diễn biến thị trường, phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, bán ngoại tệ can thiệp để ổn định thị trường. Việc điều chỉnh biên độ từ ±3% lên ±5% là cần thiết, như sự “vượt trước ngăn chặn” để bảo vệ đồng nội tệ, tránh tác động giảm giá VND sâu so với đồng nội tệ của nhiều nước, đồng thời cũng cần điều chỉnh hằng ngày có lên xuống, tránh tâm lý tỷ giá chỉ có chiều tăng. Một điểm lưu ý là nếu cùng lúc vừa điều chỉnh biên độ giao dịch, vừa điều chỉnh tỷ giá chung sẽ gây ra tác động cộng hưởng, tạo hiệu ứng tâm lý, lòng tin và có thể trở lại tình trạng găm giữ ngoại tệ. Do đó, Ngân hàng Nhà nước phải tăng lãi suất để ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối trong vòng một tháng qua, lãi suất điều hành đã tăng lần thứ hai, trước đó là chủ động nới biên độ tỷ giá giao ngay, nhằm tạo sự linh hoạt hơn cho thị trường. Bên cạnh giải pháp tăng lãi suất điều hành như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã làm, việc phối hợp các chính sách khác, trong đó có chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoán để hạn chế bán ngoại tệ ra thị trường nhằm cân bằng cung - cầu là cần thiết.

Điều chỉnh tăng lãi suất với liều lượng phù hợp và thời điểm thích hợp, bảo đảm mối quan hệ hợp lý về định lượng giữa các biến số lạm phát, tỷ giá và lãi suất

Trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu vẫn còn và chính sách tiền tệ của các nền kinh tế đầu tầu trên thế giới tiếp tục thắt chặt, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ cần theo dõi sát và điều hành lãi suất, tỷ giá, mức cung tiền cho phép linh hoạt ở mức độ phù hợp trong tổng thể với tất cả các công cụ khác để ổn định được thị trường tiền tệ, ngoại hối. Điểm mấu chốt trong điều hành linh hoạt là cần đánh giá, xác định những mục tiêu trọng tâm, trọng điểm trong từng giai đoạn nhưng vẫn bảo đảm mục tiêu xuyên suốt là góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống. Trong ngắn hạn, có thể cần phải lựa chọn đánh đổi giữa các mục tiêu khi dư địa cải thiện chính sách đã cạn. Ví dụ, để ổn định thị trường ngoại hối, phải chấp nhận tỷ giá, lãi suất tăng lên. Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất với ưu tiên số một là kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; giảm sức ép trong việc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối, giúp tỷ giá duy trì ổn định trong mặt bằng mới, bảo đảm mối quan hệ hợp lý về định lượng giữa các biến số lạm phát, tỷ giá và lãi suất, tạo niềm tin với dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài. Trên thực tế, không có một “phương trình tối ưu” về mối quan hệ của ba biến số này vì nó phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác liên quan đến sức khỏe nói chung của một nền kinh tế mà không thể đưa hết vào “phương trình”.  

Về tác động đến xuất khẩu của các động thái trên, việc tăng lãi suất sẽ làm tăng giá đồng tiền, tăng chi phí vốn cho các doanh nghiệp, trong khi việc nới rộng biên độ tỷ giá sẽ làm giảm giá đồng tiền. Đồng tiền Việt Nam có xu hướng trượt giá, sẽ hỗ trợ xuất khẩu, nhưng lại tác động tiêu cực đến nhập khẩu. Xu hướng trượt giá có thể sẽ tăng lên trong thời gian tới. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đạt thặng dư thương mại 26 tỷ USD tính đến hết năm 2023 là một bộ đệm tốt cho dự trữ ngoại tệ. Về mặt tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước vẫn đang tiếp tục chú trọng ổn định giá cả, sau quyết định mở rộng biên độ tỷ giá hối đoái, duy trì dự trữ ngoại hối ở mức bảo toàn để đối phó với tình trạng bất ổn thị trường có thể tồi tệ hơn trong tương lai. Do vậy, trong bối cảnh hiện tại, Ngân hàng Nhà nước dựa nhiều hơn vào việc tăng lãi suất trong nước và hạ trần lãi suất tín dụng để kiềm chế lạm phát, ngay cả khi điều này có hàm ý là tăng trưởng có phần thấp hơn./.