Bản lĩnh và trình độ

Hà Trang
20:37, ngày 10-12-2010

TCCSĐT - Nhìn lại thời gian ngắn ngủi hơn một tuần qua, cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng đã khiến không ít người lo ngại về những diễn biến khó lường của thị trường tiền tệ - ngân hàng những ngày cuối cùng của năm; đồng thời cũng gợi lại những lo ngại về phương cách hoạt động, về vai trò của các ngân hàng, đặc biệt vào những thời điểm nhạy cảm.

Mặc dù đã có một thỏa thuận của các ngân hàng thương mại với Hiệp hội Ngân hàng, thống nhất mức lãi suất 12%/năm. Nhưng ngay sau đó, các ngân hàng vẫn đua nhau đẩy lãi suất lên cao. Ngân hàng Đông Á đi đầu nâng lãi suất huy động lên 14%/năm nhưng góp phần đẩy cuộc đua lên đỉnh điểm phải kể đến Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) khi ngày 8-12, Techcombank công bố mức lãi suất 17%/năm cho kỳ hạn một tháng trong vòng 3 ngày từ 8 đến 10-12. Ngay sau khi Techcombank khởi động, các ngân hàng thương mại cổ phần khác cũng lập tức hưởng ứng cuộc đua tăng lãi suất. Một vài ngân hàng cổ phần đẩy lãi suất tiết kiệm kỳ hạn một tháng lên 18%/năm cho các khoản tiền gửi nhỏ và cao hơn đối với khoản tiền lớn.

Sau khi có can thiệp từ Ngân hàng Nhà nước, lãi suất lùi về 14%/năm. Câu hỏi đặt ra là liệu động thái kịp thời và hiệu quả vừa rồi của Ngân hàng Nhà nước có chặn được những đợt tăng lãi suất tiếp theo trong dịp cuối năm này?

Một ngày sau khi cuộc đua lãi suất lên đến 18% /năm, ngày 9-12, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã khá kịp thời yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương (Techcombank) không tiếp tục thực hiện sản phẩm tiết kiệm “3 ngày vàng” và công bố thông tin này trên các phương tiện truyền thông để ổn định thị trường tiền tệ; phải kịp thời rút kinh nghiệm trong việc điều chỉnh lãi suất huy động vốn tiền đồng phù hợp với quy định của pháp luật, chủ trương của Chính phủ. Đồng thời, gần như ngay lập tức, Ngân hàng Nhà nước có chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh thành phố Hà Nội họp với các ngân hàng thương mại để điều chỉnh mức lãi suất phù hợp.

Nguyên nhân của đợt tăng lãi suất này được các chuyên gia nhận định không phải vì lạm phát bởi năm 2008, lạm phát lên đến 19,89%/năm nhưng lãi suất huy động cao nhất cũng chỉ 18%/năm. Do vậy, năm nay, lạm phát chỉ trên 10% thì không có lý gì để tăng lãi suất lên đến 17-18%/năm. Theo nhận định: nguyên nhân chủ yếu là do chủ quan các ngân hàng vì mục tiêu đáp ứng nhu cầu vốn vào dịp cuối năm của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc lãi suất tăng cao vào dịp cuối năm được phân tích như một yếu tố thiếu tích cực tác động lên thị trường giá cả. Lãi suất cao, doanh nghiệp không vay vốn để sản xuất kinh doanh dẫn đến thiếu hàng hóa, tạo sức ép lên giá cả, nhất là vào dịp cận Tết khi nhu cầu tiêu thụ hàng hóa tăng cao.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương đưa ra kinh nghiệm: việc tăng lãi suất bất thường như vừa qua cần phải được xử lý ngay. Ngăn chặn những hiện tượng bất thường luôn giúp tránh được những phản ứng dây chuyền bất lợi cho nền kinh tế.

Căng thẳng lãi suất từ nay đến cuối năm là thực tế được Tiến sĩ Lê Đăng Doanh dự báo và để ổn định tình hình, Tiến sĩ cho rằng: “cần phải có các biện pháp cơ bản hơn. Đó là ổn định kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát, giảm lãi suất. Trên cơ sở đó, huy động tiền của người dân thông qua các ngân hàng, đồng thời giảm bớt số vàng, ngoại tệ đang tồn đọng trong dân”.

Một giải pháp nữa là bên cạnh đồng thuận huy động lãi suất 12%/năm thì Ngân hàng Nhà nước phải can thiệp bằng cách cung cấp tiền qua thị trường mở. Nếu cung cấp không đầy đủ hoặc không đúng đối tượng thì lãi suất sẽ tăng lên. Thực tế đã chứng minh điều này. Tuy nhiên để thực hiện hiệu quả cũng cần đề nghị Chính phủ cho phép Ngân hàng Nhà nước được cung cấp vốn trực tiếp cho các ngân hàng thương mại cổ phần có nhu cầu thực sự thông qua nghiệp vụ tái cấp vốn. Nếu chỉ cung cấp theo nguyên tắc thị trường như hiện nay thì e rằng tiền không đến được các ngân hàng cần vốn mà vẫn đổ vào những ngân hàng chưa thực sự cần. Do đó, sẽ dẫn đến tình trạng ngân hàng thừa vốn sẽ đem tiền cho vay để hưởng chênh lệch, còn ngân hàng thiếu vốn vẫn phải tăng lãi suất để huy động tiền vốn.

Thái độ, tinh thần đồng thuận của chính các thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng được xem là một giải pháp quan trọng. Mỗi ngân hàng phải đồng thuận không vì lợi ích riêng, không vì khó khăn trước mắt mà gây xáo trộn thị trường tiền tệ, ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Điều này, trong bối cảnh hiện nay, xem ra càng cần được đề cao, bởi đó chính là biểu hiện rõ rệt nhất của bản lĩnh, uy tín, là thước đo trình độ của mỗi ngân hàng./.