TCCSĐT - Việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố điều chỉnh tỷ giá VND so với đồng USD ở mức 20.693 VND/ 1 USD (tăng 9,3% so với mức 18.932 VND trước đó) và thu hẹp biên độ giao dịch từ +/-3% xuống +/-1%, đã khiến các chuyên gia tài chính, kinh tế quốc tế và khu vực đặc biệt quan tâm.

Chính sách điều hành vĩ mô đúng đắn

Đây là lần thứ tư Chính phủ Việt Nam công bố giảm giá VND trong vòng 15 tháng gần đây nhằm đối phó với tình trạng thâm hụt thương mại và thu hẹp khoảng cách chênh lệch về tỷ giá giao dịch đồng USD giữa thị trường chính thức và thị trường “chợ đen”, chính yếu tố này đã và đang làm cho tình trạng lạm phát phi mã của Việt Nam tăng cao nhất trong vòng hai năm qua. Nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm chênh lệch giữa tỷ giá giao dịch liên ngân hàng và tỷ giá thị trường tự do là chính sách điều hành vĩ mô đúng đắn của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Theo nhiều chuyên gia kinh tế nước ngoài, động thái này mang ý nghĩa tích cực, vì nó sẽ làm giảm bớt những áp lực đối với dự trữ ngoại hối của Việt Nam, hỗ trợ tích cực cho lĩnh vực xuất khẩu và làm giảm áp lực đối với cán cân thương mại. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tỏ ý hoan nghênh và coi đây là một nỗ lực để thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá “chợ đen”. Song, sự phản ứng của một số cơ quan truyền thông Đông Nam Á cho thấy, họ lo ngại VND tiếp tục phá giá.

"Báo Bưu điện Băng Cốc" dẫn lời của Chủ tịch danh dự Hội các hãng xuất khẩu gạo Thái Lan cho rằng: "Nếu VND tiếp tục giảm giá, thì trong vài năm tới Việt Nam sẽ có thể thay thế Thái Lan trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới".

Những ý kiến khác nhau

- Trong những ngày qua, báo chí Trung Quốc đăng tải nhiều bài viết về những tác động ảnh hưởng do sự thay đổi tỷ giá của VND đem lại. Các bài viết của Trung Quốc cho rằng việc hạ thấp tỷ giá hối đoái của VND không ảnh hưởng nhiều đến Trung Quốc và cũng không thể gây ra cơn khủng hoảng tài chính, tiền tệ mới tương tự như cuộc khủng hoảng ở các nước Đông Nam Á năm 1997.

Do nền kinh tế Việt Nam có quy mô nhỏ, nên không gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Trung Quốc cũng như hoạt động đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam do tổng mức đầu tư còn thấp. Điều mà Trung Quốc lo ngại hơn là, VND giảm giá có thể dẫn đến phản ứng dây chuyền đối với các nước ASEAN. Nếu điều này xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Trung Quốc, bởi đầu tư của Trung Quốc vào các nước ASEAN rất lớn. Các chuyên gia kinh tế Trung Quốc cho rằng, việc hạ thấp tỷ giá có lợi cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc, có lợi cho cân bằng cán cân thương mại Việt - Trung, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi chênh lệch thương mại của Việt Nam trong buôn bán với Trung Quốc là rất lớn và Trung Quốc cũng rất mong muốn tăng lượng hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam sang.

Mỹ là nước lớn nhất nhập khẩu hàng từ Việt Nam, giá hàng Việt Nam trên thị trường Mỹ sẽ có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trung Quốc là nước lớn nhất xuất khẩu hàng sang Việt Nam, giá hàng Trung Quốc tiêu thụ trên thị trường Việt Nam sẽ có phần tăng. Nhất là kể từ năm 2010 đến nay, tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của một số nền kinh tế mới nổi tại châu Á so với USD đã lần lượt xuất hiện xu hướng tăng giá, việc VND hạ giá sẽ có lợi cho Việt Nam tiến hành cạnh tranh với các nước đó.

Việc Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ giảm giá VND trong thời gian vừa qua nhằm kiểm soát thị trường tiền tệ là nỗ lực quá chậm trễ. Việt Nam chỉ có thể thu hẹp khoảng chênh lệch về tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường tự do xuống mức 10%. Khi đồng tiền của Việt Nam giảm giá có thể giúp nới lỏng tình trạng suy giảm dự trữ và ổn định thị trường trước nguy cơ lạm phát và nhập siêu.

- IMF và City Group ngày 12-2-2011 cũng cảnh báo rằng: việc Việt Nam hạ thấp tỷ giá hối đoái có thể gây phản ứng liên hoàn ở châu Á và biện pháp tốt nhất để ngăn chặn lạm phát là nâng lãi suất. Thực tế, mặt bằng lãi suất quá thấp mới là nguyên nhân khiến lạm phát của Việt Nam khó kiểm soát, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nâng mạnh lãi suất để tương xứng với sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái vừa qua.

Cơ quan bình xét quốc tế có uy tín là Standard&Poor’s Rating Services cho rằng: nếu Việt Nam chỉ dựa vào việc thay đổi tỷ giá sẽ khó có thể phá đi mối hoài nghi của thị trường trước việc VND sẽ tiếp tục bị mất giá. Báo cáo của Ngân hàng Credit Suisse - một trong những ngân hàng đầu tư uy tín nhất có trụ sở tại Thụy Sỹ cho rằng việc phá giá VND có lợi cho xuất khẩu của VN, nhưng đồng thời cũng tạo sức ép đối với các nước lân cận, thậm chí có thể dẫn đến làn sóng đồng loạt phá giá của các đồng tiền châu Á khác.

Kinh tế tăng trưởng nóng, nhanh liên tục trong nhiều năm đã gây ra một số vấn đề cho Việt Nam. Có nhà phân tích nêu rõ, việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái với mức lớn lần này đã phát ra thông điệp cho biết: Chính phủ Việt Nam sẽ áp dụng biện pháp thiết thực để giải quyết những vấn đề tồn tại trong kinh tế, duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô. Thế nhưng, biện pháp này sẽ gây ảnh hưởng nhất định đối với thị trường các nước xung quanh và quốc tế.

Việt Nam là nước xuất khẩu nông sản chủ yếu ở Đông Nam Á, khối lượng xuất khẩu nông sản lấy gạo là chính chiếm tới 24% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; tiếp theo là hàng dệt may, chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việc phá giá VNĐ lần này sẽ có lợi cho xuất khẩu hàng nông sản và hàng dệt may của Việt Nam. Theo dự tính của các hãng xuất khẩu gạo Thái Lan, giá bán của mỗi tấn gạo Việt Nam sẽ giảm 10 USD. Nhưng điều này tạm thời không tác động mạnh tới việc xuất khẩu gạo của các nước ASEAN khác, là vì hiện nay thị trường quốc tế vẫn có nhu cầu rất lớn về gạo và các nông sản chủ yếu khác.

- Chủ tịch danh dự Hội các hãng xuất khẩu gạo Thái Lan cho rằng: do Việt Nam hiện nay tồn tại hiện tượng kinh tế quá nóng, việc phá giá VND có thể là "con dao hai lưỡi", sẽ làm cho lạm phát trở nên nghiêm trọng hơn. Liên đoàn Công nghiệp Thái Lan thì dự kiến, ngành xuất khẩu của Việt Nam rất có thể gia tăng 7% lợi nhuận bởi phá giá VND, nhưng lạm phát cao cũng sẽ tăng giá thành của nhiều lĩnh vực, vì thế lại làm giảm thiểu lợi nhuận do phá giá VND mang lại.

Kể từ khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thông báo việc thực hiện vòng hai chính sách nới lỏng tiền tệ, tại các nước châu Á đã lần lượt xuất hiện lạm phát ở những mức độ khác nhau. Trong khi Trung Quốc, Xinh-ga-po lựa chọn phương thức nâng lãi suất và tăng dự trữ ngoại tệ để ngăn cản rủi ro từ lạm phát thì riêng Việt Nam với mức lạm phát lên đến trên 12% lại lựa chọn biện pháp hạ thấp tỷ giá hối đoái. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hồi tháng 9-2008 là 23.9 tỉ USD, thì đến năm 2010 chỉ còn 13.6 tỉ USD, điều này có thể tạo nguy cơ mất an ninh kinh tế của Việt Nam.

Các chuyên gia khuyến nghị

- Trước tình trạng này, nhóm chuyên gia Citi Group khuyến nghị: Việt Nam nên có những biện pháp kiểm soát tăng giá và khuyến cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên tăng mức lãi suất ngân hàng và khẳng định rằng việc Việt Nam chỉ đơn thuần áp dụng chính sách phá giá tiền đồng thì không thể giải quyết các vấn đề tồn tại cơ bản liên quan đến thực trạng thiếu niềm tin trong nước đối với tiền đồng.

- Việt Nam cũng cần phải đưa ra một loạt chính sách điều hành vĩ mô bao quát hơn nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ cần tập trung quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát và chính sách tài chính cần tập trung giải quyết hạn chế nợ công. Tuy nhiên, nguy cơ khủng hoảng do mất cân bằng trong cán cân thanh toán và mức dự trữ ngoại tệ suy giảm do lạm phát leo thang và đồng VNĐ yếu là những vấn đề mà Việt Nam cần quan tâm giải quyết. Giá cả hàng hóa của Việt Nam đã tăng 12,7% trong tháng 01.2011 so với mức 11,75% của tháng 12.2010. Trong khi các quốc gia châu Á, trừ Nhật Bản, đang phải đối phó với tình trạng lạm phát, các nước như Trung Quốc, Đài Loan và Xinh-ga-po đã và đang tăng giá đồng tiền của mình và tăng mức dự trữ ngoại hối thì mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã giảm xuống còn 13,6 tỉ USD vào thời điểm cuối năm 2010. Mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam năm 2008 là 23,9 tỉ USD.

- “Chính phủ Việt Nam cần tìm ra phương pháp có hiệu quả hơn nhằm ngăn chặn thâm hụt thương mại trong khi kinh tế tăng trưởng quá nhanh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn còn thiếu tính độc lập khiến người đầu tư ít tin tưởng vào VNĐ. Trong tình hình hiện nay, chính phủ Việt Nam cần phải tìm ra sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô”.

- Việt Nam cũng cần phải duy trì chính sách tỷ giá cao hơn để bình ổn giá cả thị trường và ngăn chặn tình trạng bán ra VNĐ. Có như vậy mới thực hiện được chủ trương, biện pháp điều hành tỷ giá một cách linh hoạt và đối phó với tình trạng nhập siêu thay vì áp dụng chính sách tỷ giá cố định trong thời gian dài./.