Sáng mãi tinh thần Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
Thế giới còn đổi thay, nhưng tinh thần của "Tuyên ngôn" sáng mãi tiếp tục soi sáng con đường chúng ta đi. Vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất và tác động của thời đại đối với quốc gia, dân tộc mà "Tuyên ngôn" nêu ra đang được chúng ta nhận thức và vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới hiện nay.
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" được C. Mác và Ph. Ăng-ghen viết cách đây 160 năm là sự "công khai trình bày trước toàn thể thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ"(1) của những người cộng sản và "đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản"(2). Với "Tuyên ngôn", những người cộng sản không hề giấu giếm mục đích của mình về lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những chỉ dẫn của "Tuyên ngôn" đã được các đảng cộng sản thế giới vận dụng vào thực tế phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa suốt thế kỷ XX, mà Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những đảng vận dụng và phát triển sáng tạo, đem lại những thành tựu vĩ đại, đóng góp vào sự phát triển của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu có những luận điểm đúng đắn được nêu ra trong "Tuyên ngôn", nhưng do chủ quan, giáo điều nên đã hiểu và làm không đúng với tinh thần của C. Mác - Ph. Ăng-ghen. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng và quá trình đổi mới tư duy lý luận chúng ta có điều kiện hiểu biết thấu đáo hơn. Bài viết này xin nêu lên 2 nội dung mà "Tuyên ngôn" đã nêu ra và Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng, phát triển trong công cuộc đổi mới. Đó là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất và tác động của thời đại đối với quốc gia dân tộc.
1 - Nghiên cứu quan niệm của "Tuyên ngôn" về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, trước đây chúng ta thường trích dẫn luận điểm "những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu"(3). Từ trích dẫn như vậy đã dẫn tới nhận thức phiến diện và tiến hành xóa bỏ các hình thức sở hữu tư nhân, thiết lập chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất sau khi đã giành được chính quyền. Cơ sở lý luận bảo đảm vững chắc cho việc thủ tiêu các hình thức chiếm hữu tư nhân về các tư liệu sản xuất, là được giải thích rằng nó đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản".
Song đến nay, nhờ được kiểm nghiệm bằng thực tế cũng như nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống hơn tinh thần của "Tuyên ngôn", chúng ta thấy đây là sự cắt xén trong viện dẫn chủ nghĩa Mác là nguyên nhân dẫn đến những nhận thức lệch lạc về vấn đề sở hữu đã nêu trong "Tuyên ngôn". Chúng ta chỉ giải thích rằng trong "Tuyên ngôn" các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định phải "xóa bỏ chế độ tư hữu" nhưng lại quên rằng ở ngay dòng trên đó các ông đã viết: "Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản"(4). Vẫn dòng tư tưởng ấy, các ông viết tiếp: đối với những sở hữu được "làm ra, kiếm được một cách lương thiện và do lao động của bản thân", những "hình thức sở hữu có trước sở hữu tư sản, tức là sở hữu của người tiểu tư sản, của người tiểu nông" thì chúng ta "cần gì phải xóa bỏ cái đó", mà chính "sự phát triển của công nghiệp đã xóa bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xóa bỏ cái đó rồi"(5). Không dừng lại ở đó, "Tuyên ngôn" đanh thép khẳng định: "Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác"(6).
Từ những viện dẫn trên cho thấy, trong "Tuyên ngôn" các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã phân biệt rất rõ giữa chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu trong chủ nghĩa tư bản. Cái mà những người cộng sản sau khi giành được chính quyền cần phải xóa bỏ là chế độ sở hữu tư bản - với tư cách chế độ sở hữu của chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa. Còn các hình thức sở hữu tư nhân trong lòng chủ nghĩa tư bản, những người cộng sản phải có thái độ đúng mực, nhất là đối với sở hữu của những người tiểu nông thì chính quá trình công nghiệp hóa sẽ tự xóa bỏ nó rồi. Điều này, trong tác phẩm "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản", dưới hình thức câu hỏi và đáp, trả lời câu hỏi thứ mười bảy "Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?", Ph. Ăng-ghen đã không ngần ngại trả lời "Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu"(7).
Trong "Tuyên ngôn", các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng rất thận trọng khi nêu các biện pháp giải quyết vấn đề sở hữu ngay sau khi những người cộng sản nắm được chính quyền: "Cố nhiên, điều đó (tức vấn đề giai cấp vô sản tổ chức thành giai cấp thống trị - tác giả chú) lúc đầu chỉ có thể thực hiện được bằng cách xâm phạm một cách chuyên chế vào quyền sở hữu và vào những quan hệ sản xuất tư sản, nghĩa là bằng những biện pháp, mà về mặt kinh tế thì hình như không được đầy đủ và không có hiệu lực, nhưng trong tiến trình vận động, những biện pháp ấy sẽ vượt quá bản thân chúng và là thủ đoạn không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất"(8). Đồng thời các ông cũng lưu ý rằng "trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều"(9).
Phân tích tiếp về mâu thuẫn giữa chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất, các ông cho rằng "trong xã hội hiện nay của các ông, chế độ tư hữu đã bị xóa bỏ đối với chín phần mười số thành viên của xã hội đó rồi; chính vì nó không tồn tại đối với số chín phần mười ấy, nên nó mới tồn tại được"(10). Nhìn nhận về sự vận động của hình thái cổ phần hóa trong chủ nghĩa tư bản, rõ ràng quan hệ sở hữu đã biến đổi do tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất và trong bộ Tư bản đã phân tích rất sắc sảo. Dĩ nhiên, nhà tư bản biết rằng, nếu để sở hữu vận động theo hướng cổ phần hóa với sự tham gia của cổ đông là rộng rãi người lao động thì nó sẽ không còn là nó nữa, mà đó lại là quá trình phi chủ nghĩa tư bản và điều này càng thấy rõ trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Vì vậy, nhà tư bản thường xuyên tìm cách khống chế cổ phần chi phối bằng cách này hay cách khác, hình thức này hay hình thức khác. Hiện nay, quan hệ sở hữu vẫn biến đổi dưới áp lực của toàn cầu hóa, của sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ, song những chỉ dẫn của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học vẫn còn giá trị, nhắc nhở chúng ta hãy thận trọng khi đề ra biện pháp tác động. Xác định sở hữu là mục đích hay phương tiện trên con đường tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì cần tiếp tục nghiên cứu công phu, nghiêm túc, nhưng rõ ràng đây là vấn đề mà ngay cả trong "Tuyên ngôn" C. Mác và Ph. Ăng-ghen cũng nêu ra và đề ra biện pháp xử lý dè dặt, thận trọng - nếu không muốn nói là còn điều chỉnh nhận thức trong quá trình hoàn thiện học thuyết của mình. Việc khẳng định nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, với sự phát triển mạnh mẽ của loại hình sở hữu hỗn hợp, sở hữu tư bản tư nhân, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước,... đã tạo nên những xung lực mới cho nền kinh tế, một lần nữa khẳng định chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về quan hệ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về sự nhận thức và vận dụng đúng đắn quan niệm sở hữu trong "Tuyên ngôn". Quan điểm Đại hội X của Đảng (4-2006) về xóa bỏ mọi hình thức ưu đãi theo hình thức sở hữu (mà chỉ ưu đãi theo mục tiêu hoặc chương trình) là một bước tiến nêu trên trong nhận thức về sở hữu.
2 - "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" đã chỉ rõ những chuyển biến của thời đại kể từ khi giai cấp tư sản ra đời, với những cải biến về công cụ sản xuất, về phát kiến địa lý tìm ra châu Mỹ và con đường vòng quanh thế giới. Những nhận định của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về một thế giới ngày càng gắn kết nhau thành một thị trường thống nhất đã, đang và sẽ được kiểm chứng trong thời kỳ toàn cầu hóa. Trên tinh thần ấy, "Tuyên ngôn" cho rằng "Việc tìm ra châu Mỹ và con đường biển vòng châu Phi đã đem lại một địa bàn hoạt động mới cho giai cấp tư sản vừa mới ra đời. Những thị trường Đông - Ấn và Trung Quốc, việc thực dân hóa châu Mỹ, việc buôn bán với thuộc địa, việc tăng thêm nhiều tư liệu trao đổi và nói chung tăng thêm nhiều hàng hóa, đã đem lại cho thương nghiệp, cho ngành hàng hải, cho công nghiệp, một sự phát đạt chưa từng có, và do đấy, đã đem lại một sự phát triển mau chóng cho yếu tố cách mạng trong xã hội phong kiến đang tan rã"(11). Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới quá trình kinh tế thế giới đã được các ông nhìn nhận sâu sắc: "Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thị trường mà việc tìm ra châu Mỹ đã chuẩn bị sẵn. Thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thông tiến bộ phát triển nhanh chóng lạ thường. Sự phát triển này lại tác động trở lại đến việc mở rộng công nghiệp; mà công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải, đường sắt càng phát triển thì giai cấp tư sản càng lớn lên, làm tăng những tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp do thời trung cổ để lại xuống phía sau"(12). "Tuyên ngôn" là một trong những tác phẩm đầu tiên trên thế giới có cách nhìn sâu sắc và biện chứng về quá trình quốc tế hóa của sản xuất và tiêu dùng: "Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới(13). Những ngành công nghiệp dân tộc cũ đã bị tiêu diệt và đang ngày càng bị thay thế bởi những ngành công nghiệp mới, tức là những ngành công nghiệp mà việc du nhập chúng trở thành một vấn đề sống còn đối với tất cả các dân tộc văn minh, những ngành công nghiệp không dùng những nguyên liệu bản xứ mà dùng những nguyên liệu đưa từ những miền xa xôi nhất trên trái đất đến và sản phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn được tiêu thụ ở tất cả các nơi trên trái đất nữa. Thay cho những nhu cầu được thỏa mãn bằng những sản phẩm trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thỏa mãn bằng những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về. Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. "Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế giới"(14). "Tuyên ngôn" cũng đã chỉ rõ vai trò của sự cải biến công cụ sản xuất đối với quá trình phát triển lực lượng sản xuất mang tính toàn thế giới: "Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản đã lôi cuốn đến những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh", "Giai cấp tư sản bắt nông thôn phải phục tùng thành thị"; "Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Sự chinh phục lực lượng thiên nhiên, sự sản xuất bằng máy móc, việc áp dụng hóa học vào công nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá từng lục địa nguyên vẹn, việc khai thông các dòng sông cho tàu bè đi lại được, hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên, - có thế kỷ nào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lao động xã hội!"(15).
Những chỉ dẫn của "Tuyên ngôn", đến nay đã 160 năm vẫn còn nóng hổi tính thời sự về quá trình sản xuất và tiêu dùng mang tính thế giới, về chuyển biến của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Đành rằng, từ khi "Tuyên ngôn" ra đời đến nay, thế giới đã trải qua nhiều lần chuyển biến từ cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất sang cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai và lần thứ ba, đã làm cho thế giới chuyển từ quốc tế hóa sang toàn cầu hóa, với phạm vi rộng lớn hơn, cường độ mạnh mẽ hơn và diễn biến phức tạp hơn. Tinh thần của "Tuyên ngôn" vẫn còn cảnh tỉnh các dân tộc nhỏ yếu về tham vọng mở rộng thị trường của tư bản, dù dưới hình thức này hay hình thức, để từng bước thiết lập thị trường mang tính chất thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ với những bước phát triển nhảy vọt chưa từng thấy, tạo ra những biến đổi căn bản của nền sản xuất vật chất thế giới, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và vật liệu mới. Nó làm cho thế giới ngày thu nhỏ lại, không gian rút ngắn, với năng suất lao động cao hơn và đưa lại những tiện lợi cho con người trong thụ hưởng nhu cầu vật chất và tinh thần. Nhưng thành tựu phát triển của nền văn minh thế giới đang nằm trong tay một nhóm quốc gia giàu có, mà chi phối nó là các tập đoàn đa quốc gia. Họ vừa chi phối vốn, công nghệ và các luật chơi của thế giới thông qua các thể chế đa phương. Điều đó làm cho khoảng cách trình độ về phát triển giữa các nước ngày càng bị đẩy ra xa hơn. Toàn cầu hóa là quá trình khách quan do sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhất là cải biến công cụ sản xuất, phương tiện giao thông, liên lạc, nhưng lại bị các siêu cường lợi dụng để thực hiện tham vọng thao túng thị trường thế giới. Tham vọng ấy đã được "Tuyên ngôn" lột tả, phơi trần toàn bộ - đó là việc "bắt những nước dã man hay nửa dã man phải phụ thuộc vào các nước văn minh, nó đã bắt những dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây"(16). Đành rằng, sau khi Tuyên ngôn ra đời 160 năm, thế giới về cơ bản đã phi thực dân hóa, nhưng các thế lực tư bản vẫn không từ bỏ âm mưu sử dụng các ưu thế về vốn, về công nghệ, về thao túng mạng lưới thương mại toàn cầu để tiếp tục ràng buộc các nước nhỏ, chậm phát triển. Những chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam gần đây về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế là một minh chứng hùng hồn về đưa dân tộc ta hội nhập vào quỹ đạo vận động chung của thế giới, tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế - với tư cách là một quá trình khách quan như tinh thần "Tuyên ngôn" đã chỉ rõ. Đồng thời, chúng ta phải xử lý mối quan hệ giữa mở rộng hợp tác quốc tế với bảo vệ độc lập dân tộc, chống các mưu toan và sức ép thủ tiêu nền độc lập của dân tộc bằng các biện pháp phi vũ trang, nhất là trong bối cảnh mà chủ quyền quốc gia truyền thống đã biến đổi.
(1), (2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 4, tr 595
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, tr 616
(4), (5), (6), C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, tr 615, tr 616, tr 618
(7), (8), (9) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, tr 469,
tr 626 – 627
(10), (11), (12) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, tr 618, tr 597 - 598, tr 598
(13), (14), (15) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, tr 601, tr 602, tr 603
(16) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, tr 602
Việt Nam bất bình về phán quyết sai lầm của Tòa án Hoa Kỳ  (24/02/2008)
Toà án Liên bang Hoa Kỳ bác đơn kiện của các nạn nhân da cam/dioxin Việt Nam - một quyết định hết sức phi lý, không công bằng  (23/02/2008)
Từ tư tưởng giải phóng con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đến mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay  (23/02/2008)
Nhìn lại quản lý tài chính ngân sách nhà nước năm 2007 và định hướng tài chính ngân sách nhà nước năm 2008  (23/02/2008)
Đưa nhân lực trở thành lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của Việt Nam  (23/02/2008)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm