TCCSĐT - Ngay sau khi xảy ra các vụ bạo loạn ở Li-bi, Mỹ và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ngay lập tức điều nhiều tàu chiến áp sát biên giới đất nước giàu có dầu mỏ bậc nhất châu Phi này, nhằm gây sức ép buộc nhà lãnh đạo Mu-am-ma Ca-đa-phi (Muammar Caddafi) phải từ chức.

Động thái trên cộng với những tuyên bố mạnh mẽ phát đi từ Nhà Trắng đã làm dấy lên lo ngại Oa-sinh-tơn một lần nữa bất chấp luật pháp quốc tế tiến hành các chiến dịch quân sự can thiệp vào công việc của một quốc gia có chủ quyền như họ đã từng làm với Liên bang Nam Tư (1999), I-rắc (2003) và Áp-ga-ni-xtan (2001). Tuy nhiên, trong bối cảnh nước Mỹ đang phải vật lộn với vô vàn khó khăn trong và ngoài nước, cũng như nhiều yếu tố khách quan bất lợi khác nên Oa-sinh-tơn tỏ ra lưỡng lự và rất thận trọng về vấn đề này.

Chính quyền của Tổng thống Ba-rắc Ô-ba-ma (Barack Obama) đang chịu sức ép ngày càng lớn từ giới chính trị trong nước. Một số chính trị gia ở Oa-sinh-tơn cho rằng Mỹ cần phải nhanh chóng can thiệp quân sự vào Li-bi để ngăn chặn được cái gọi là những người vô tội bị giết hại, đồng thời, thể hiện được sự ủng hộ của nước Mỹ đối với tự do và an ninh. Đa số họ đề nghị thiết lập một khu vực cấm bay hoặc một khu vực cấm các phương tiện quân sự đi lại, hoặc cung cấp vũ khí và hỗ trợ cho lực lượng nổi dậy. Tuy nhiên, hiện Mỹ vẫn chưa có bằng chứng xác thực cho thấy lực lượng không quân Li-bi đã sử dụng máy bay ném bom vào dân thường hay việc chính phủ nước này dùng máy bay để vận chuyển lính đánh thuê từ Áp-ga-ni-xtan về để trấn áp lực lượng nổi loạn trong nước. Chính vì những cáo buộc thiếu căn cứ như thế nên Oa-sinh-tơn cũng hiểu rằng khó lòng nhận được sự đồng ý của Nga và Trung Quốc về việc yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ) ra nghị quyết thiết lập một khu vực cấm bay hay tiến hành can thiệp quân sự vào Li-bi.

Cũng không loại trừ khả năng Mỹ có thể “qua mặt” LHQ (như họ đã từng làm trong những năm gần đây khi tiến hành các hoạt động can thiệp quân sự tại một số nước), đơn phương tiến hành thiết lập khu vực cấm bay đối với quốc gia Bắc Phi này. Thế nhưng, Giám đốc Tình báo quốc gia Mỹ Giêm Cláp-pơ (James Clapper) cho rằng: kế hoạch lập vùng cấm bay ở Li-bi là việc không đơn giản vì nước này có hệ thống ra-đa dưới đất để bảo vệ các khu vực duyên hải - nơi có 80% cư dân sinh sống, với khoảng 30 địa điểm đặt tên lửa đất đối không. Còn, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Rô-bớt Ghết (Robert Gates) lại nhấn mạnh: “hiện không có cơ sở để khẳng định việc thiết lập vùng cấm bay có ý nghĩa quyết định”. Trái lại, nhiều chuyên gia cho rằng biện pháp này không có tác dụng vì máy bay và trực thăng không phải là lợi thế quân sự của nhà lãnh đạo Ca-đa-phi. Chính quyền của ông Ca-đa-phi chỉ cần sử dụng những lợi thế về binh lính và vũ khí hạng nhẹ trên mặt đất cũng có thể lập lại được trật tự. Trong khi đó, việc áp đặt khu vực cấm đi lại của các phương tiện quân sự nhằm hạn chế khả năng sử dụng xe tăng và các phương tiện quân sự khác của chính quyền Ca-đa-phi đòi hỏi phải sử dụng nhiều lực lượng quân sự hơn so với việc thiết lập vùng cấm bay. Với diện tích khoảng 1,7 triệu km2, Li-bi rộng gấp bốn lần I-rắc và 3 lần Áp-ga-ni-xtan, địa hình lại hiểm trở nên nếu được thiết lập, các máy bay tuần tra của Mỹ và đồng minh cũng không thể ngăn chặn sự di chuyển của mọi phương tiện quân sự của chính quyền Tri-pô-li. Để làm được điều đó, chỉ có cách là phải triển khai các nhân viên huấn luyện, cố vấn và lực lượng đặc biệt trên mặt đất. Đây chính là “cái bẫy” mà Mỹ và đồng minh không muốn mắc phải. Từ quyết định can thiệp quân sự ngắn hạn sẽ dần dần biến thành dài hạn và sa lầy. Không những thế, sự hiện diện của quân đội nước ngoài lâu dài ở Li-bi sẽ dần “biến tướng” thành kẻ xâm lược. Áp-ga-ni-xtan và I-rắc là minh chứng sống động nhất. Đó là chưa kể, ngay cả lực lượng nổi loạn, vốn đang phải cầu cứu phương Tây, cũng không hề muốn. Lực lượng này đã nhiều lần lên tiếng yêu cầu Mỹ và đồng minh không kích Li-bi, thiết lập khu vực cấm bay và hỗ trợ vũ khí cho họ, nhưng đồng thời vẫn khẳng định không muốn nhìn thấy sự hiện diện của quân đội nước ngoài trên đất nước họ. Do đó, nếu Mỹ đưa binh sĩ vào Li-bi sẽ gây ra tác động ngược. Mỹ không những không giúp được phe nổi loạn lật đổ chính quyền của nhà lãnh đạo Li-bi Ca-đa-phi, mà còn khiến cho các lực lượng chính trị đối lập và toàn thể nhân dân Li-bi kết lại chống giặc ngoại xâm. Hơn nữa, vào thời điểm hiện nay khi nước Mỹ đang chìm ngập trong nợ nần, kinh tế phục hồi chậm chạp sau khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp ở ngưỡng hai con số thì việc mở “mặt trận thứ 3”, trong khi chưa thoát khỏi “bãi lầy” chiến tranh ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan không phải là sự lựa chọn ưu tiên hàng đầu của Chính quyền Tổng thống Ô-ba-ma.

Mỹ không chỉ lưỡng lự việc thiết lập vùng cấm bay hay trực tiếp can thiệp quân sự vào Li-bi, mà còn do dự trong việc cung cấp vũ khí cho lực lượng nổi dậy ở đất nước Bắc Phi này. Có lẽ, Oa-sinh-tơn đã học thuộc lòng “bài học lịch sử” Áp-ga-ni-xtan những năm 70 của thế kỷ trước. Khi đó, Mỹ đã cung cấp vũ khí cho nhiều băng nhóm chống đối chính phủ để đánh bại chế độ cầm quyền ở Áp-ga-ni-xtan, vốn được Liên Xô ủng hộ. Chính sách này đã có tác dụng trong việc hiện thực hóa mục tiêu trước mắt, nhưng trong những năm sau đó, chính những băng nhóm này lại thực hiện các chương trình thù địch đối với các lợi ích của Mỹ. “gậy ông, đập lưng ông”, vụ khủng bố 11-9-2001 chắc hẳn là một bài học đắt giá đối với bất cứ ai khi được bầu làm Tổng thống Mỹ.

Sự lưỡng lự của Mỹ trong vấn đề Li-bi khiến một số nhà phân tích cho rằng: thực ra Oa-sinh-tơn không muốn thấy nhà lãnh đạo Ca-đa-phi bị lật đổ, bởi lực lượng bạo loạn có quá nhiều bè phái, chia rẽ và đặc biệt không loại trừ khả năng trong đó có các băng nhóm khủng bố. Theo số liệu báo chí nước ngoài, số chiến binh thánh chiến Hồi giáo từ Li-bi đến I-rắc nhiều gấp đôi các nước khác và hơn 80% trong số đó đến từ các thành phố Ben-gha-di (Benghazi) hoặc Dác-nanh (Darnah) ở miền Đông Li-bi, nơi đóng tổng hành dinh của lực lượng chống chính phủ Li-bi. Sự ra đi của ông Ca-đa-phi và giới thân cận có thể dẫn đến việc các nhân vật khác nhau, với sự ủng hộ của các bộ tộc khác nhau, lên nắm quyền lực hoặc lực lượng Hồi giáo cực đoan sẽ giành được lợi thế. Trong bối cảnh đó, nhiều khu vực ở Li-bi sẽ nằm ngoài sự kiểm soát của chính phủ mới, tạo khoảng trống cho nhiều nhóm khủng bố, trong đó An Kê-đa tăng cường hoạt động. Tệ hại hơn, nếu Li-bi trở thành một Xô-ma-li trên bờ Địa Trung Hải, thủ lĩnh các bộ lạc ở Li-bi liên tục tuyên chiến với nhau sẽ khiến châu Âu lại phải ban bố tình trạng khẩn cấp về dòng người tị nạn ồ ạt tràn vào lục địa già. Việc Mỹ tạo sức để buộc ông Ca-đa-phi từ chức chỉ là hành động “tát nước theo mưa” như họ đã từng làm trước đó với các nhà lãnh đạo Tuy-ni-đi và Ai-cập. Nếu thành công Oa-sinh-tơn sẽ được dịp “lên mặt” với thế giới rằng họ luôn đi tiên phong trong việc thúc đẩy phong trào “dân chủ”. Nhưng thật không may cho Mỹ nhà lãnh đạo Ca-đa-phi không giống như những “đồng minh” thân cận của Oa-sinh-tơn ở Tuy-ni-đi và Ai-cập.

Và cuối cùng, Li-bi không phải là quốc gia quan trọng nhất ở Trung Đông, cả về ảnh hưởng chính trị và tác động đối với thị trường dầu mỏ. Do đó, đối với Mỹ, Li-bi là “chuyện nhỏ”, điều khiến Nhà Trắng lo lắng nhất hiện nay là làm thế nào để giúp quá trình chuyển giao ở Ai Cập diễn ra êm thấm, để A rập Xê-út được tiếp tục ổn định và I-ran luôn trong tình trạng bất ổn.

Do vậy, rất có thể Mỹ và các đồng minh sẽ không đơn phương thiết lập vùng trời cấm bay hay trực tiếp can thiệp quân sự vào Li-bi. Điều này cũng đồng nghĩa với việc lực lượng ủng hộ nhà lãnh đạo Ca-đa-phi sẽ sớm giành lại quyền kiểm soát đất nước./.