Quyền sống và quyền được tôn trọng của người nhiễm HIV/AIDS
Trong mấy thập niên vừa qua, thế giới đang nổi lên vấn đề có tính toàn cầu bởi những hệ lụy của nó có tính xã hội lớn - đó là đại dịch HIV/AIDS. Số lượng người nhiễm tăng lên từng ngày, từng giờ; độ tuổi lây nhiễm càng ngày càng trẻ hóa; sự kỳ thị, phân biệt của xã hội càng gia tăng, từ trong gia đình đến ngoài cộng đồng xã hội… bởi nhận thức của cộng đồng xã hội chưa thật sự đúng đắn.
Khắc phục cái nhìn lệch lạc về căn bệnh HIV/AIDS
Sau 30 năm kể từ khi phát hiện “căn bệnh lạ” đầu tiên trên thế giới vào tháng 6 năm 1981 tại Hoa Kỳ, HIV/AIDS đã nhanh chóng trở thành đại dịch, đe dọa nhân loại từng ngày, từng giờ. Mỗi ngày có trên 6.800 người bị nhiễm HIV và trên 5.700 người tử vong vì AIDS, chủ yếu là do không được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ dự phòng và điều trị HIV. Hiện nay, đại dịch HIV vẫn là căn bệnh lây truyền nguy hiểm nhất, đe dọa sức khỏe cộng đồng. Tại châu Á, Đông Nam Á là nơi có tỷ lệ hiện nhiễm HIV cao nhất, với nhiều xu hướng dịch khác nhau tại các nước. Trong khi gần đây, tỷ lệ nhiễm tại Cam - pu - chia, Mi - an - ma và Thái Lan đều có dấu hiệu giảm, thì tại In -đô - nê - si - a (đặc biệt tại tỉnh Papua) và Việt Nam những con số này lại đang gia tăng.
Dịch HIV/AIDS tại Việt Nam hiện vẫn chủ yếu tập trung trong các nhóm nguy cơ cao, với tỷ lệ hiện nhiễm cao trong số những người nghiện và tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm, khách mua dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới. Mối liên hệ qua lại giữa các nhóm nguy cơ cao này là do việc dùng chung dụng cụ tiêm chích và sinh hoạt tình dục không an toàn, nhất là trong đối tượng nam thanh niên.
Đại dịch HIV/AIDS đã và đang tiếp tục làm cho cuộc sống của những người cao tuổi có con cái mắc bệnh đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. HIV/AIDS đã làm mất đi lực lượng trẻ đang là nguồn lao động và hỗ trợ chính trong gia đình. Bối cảnh đó đã xô đẩy những người cao tuổi phải trở thành trụ cột gia đình, phải lao động vất vả để kiếm tiền nuôi bản thân và nuôi con, nuôi cháu. Thu nhập hạn hẹp của họ giờ đây phải cáng đáng thêm các chi phí cho việc chăm sóc, thuốc thang, chữa trị và cuối cùng là chi phí tang ma. Họ đang bị kiệt quệ cả về thể chất, kinh tế, tâm lý và tinh thần. Cuộc sống của họ bị đảo lộn bởi những nhọc nhằn, nước mắt, xót xa, tủi hổ, trước sự xa lánh của cộng đồng do con, cháu họ bị nhiễm phải căn bệnh thế kỷ. Sự kỳ thị, phân biệt của cộng đồng đã khiến nhiều người thân trong gia đình có người bị nhiễm bệnh mất đi cơ hội kiếm sống vốn đã rất khó khăn. Sự kỳ thị cũng làm cho họ không dám bộc lộ nỗi khổ tâm của mình, mà chỉ âm thầm chịu đựng, chống chọi với mọi khó khăn, thách thức trong việc tự quản lý, chăm sóc giáo dục người nghiện, người nhiễm bệnh trong gia đình. Chính điều này đã làm cho người cao tuổi, không còn tâm trí, thời gian cũng như tiền bạc để chăm lo cho bản thân mình khi tuổi đã xế bóng, sức khỏe bị kiệt quệ.
Ở Việt Nam, có một thực trạng là vấn đề tình dục không lành mạnh còn liên quan đến các tệ nạn xã hội khác. Điều này càng làm tăng thêm sự kỳ thị và thành kiến của xã hội đối với người có HIV. Tiến sĩ Nafis Sadik, đặc phái viên về HIV/AIDS khu vực Châu Á Thái Bình Dương nhận định: Tình dục và vấn đề giới tính là trọng tâm của HIV. Trong vấn đề tình dục có sự bất bình đẳng giới giữa nam và nữ. Phụ nữ nhiễm HIV/AIDS bị kỳ thị nặng nề hơn nam giới. Trong khi cộng đồng có xu hướng chê trách người phụ nữ bị nhiễm HIV/AIDS, còn nam giới khi bị nhiễm HIV/AIDS lại thường nhận được sự tha thứ nhiều hơn. Chính vì vậy, người phụ nữ nhiễm HIV/AIDS thường bị coi là có hành vi đạo đức không lành mạnh, nhưng trong thực tế, nhiều phụ nữ là nạn nhân do nhiễm từ chồng, từ bạn tình của mình. Hơn nữa, người phụ nữ mặc dù có HIV vẫn phải lo toan, lao động kiếm sống nuôi bản thân, gia đình và chăm sóc chồng con. Thế nên, sự xa lánh kỳ thị của cộng đồng sẽ đẩy họ và gia đình họ suy sụp nhanh hơn, bởi họ chịu sức ép kép và cao gấp nhiều lần so với nam giới.
Bên cạnh đó, ta cũng thấy một số người có HIV có thói quen “tự kỳ thị” nên dễ bị tổn thương trước những hành vi vô tình nào đó của cộng đồng và dễ ngộ nhận cho là bị kỳ thị, phân biệt đối xử. Người mắc triệu chứng này thường có mặc cảm tội lỗi, tự ti, mất tự tin và tự cô lập, chán nản, tuyệt vọng trong cuộc sống và mọi mối quan hệ, từ bỏ các ước muốn trong cuộc sống: việc làm, thăng tiến nghề nghiệp, hạnh phúc gia đình. Họ bị ám ảnh là những người thừa, vô tích sự nên không ít trường hợp đã tìm đến cái chết bằng việc tự sát.
Thái độ phân biệt đối xử và kỳ thị của cộng đồng còn tồn tại là do kết quả của quá trình nhận thức chưa đầy đủ về đại dịch AIDS. Nhiều người vẫn còn nghĩ HIV/AIDS có thể lây qua tiếp xúc thông thường như bắt tay, ôm hôn và ăn uống. Điều này đã dẫn tới việc người dân áp dụng những biện pháp phòng tránh không đúng, dễ mang tính kỳ thị lảng tránh. Biểu hiện của thái độ phân biệt và kỳ thị là mọi người xa lánh: tránh gần gũi, đụng chạm, sử dụng đồ dùng chung; từ chối các mối quan hệ khiến người có HIV mất chỗ ở, mất việc làm, học tập, bị đùn đẩy khi khám chữa bệnh; cô lập, không cho tiếp xúc với mọi người nên họ phải ở riêng trong gia đình, khu riêng trong bệnh viện; sự bàn tán, đàm tiếu của cộng đồng đã làm mất dần vị trí của họ trong gia đình và xã hội và do đó cũng mất luôn khả năng tiếp cận các nguồn lực cần thiết cho cuộc sống và chăm sóc sức khỏe. Và do đó, chính họ và con cái họ sẽ phải đối diện với tình trạng sống “bốn không” (không nhà, không nghề nghiệp, không hộ khẩu và không có giấy khai sinh cho con).
Theo báo cáo của Cục Phòng chống HIV/AIDS - Bộ Y tế, tính đến cuối năm 2010, Việt Nam có gần 184.000 người nhiễm HIV/AIDS còn sống. Dự báo năm 2015, Việt Nam sẽ có khoảng 300.000 người có HIV, trong đó có 140.000 người cần được điều trị bằng thuốc ARV. Ước tính, những ca nhiễm mới sẽ tiếp tục tăng khoảng 15.000 ca/năm ở những nhóm người nghiện chích ma túy, mại dâm, nam quan hệ đồng giới… Sự kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội gia tăng đã và đang tạo nên cái nhìn lệch lạc về căn bệnh này. Ở nhiều nơi, người ta không chấp nhận sự có mặt của những đứa con có HIV/AIDS, những mảnh đời bất hạnh trong gia đình và cộng đồng. Tại nơi làm việc, trong cộng đồng và thậm chí cả ở gia đình, sự kỳ thị và phân biệt đối xử khiến cho đề tài HIV/AIDS không được trao đổi cởi mở, thẳng thắn, gây trở ngại cho công tác chăm sóc người bệnh và phòng, chống đại dịch.
Nhiều người trong cộng đồng vẫn còn hiểu biết mơ hồ về các con đường lây truyền của HIV, nên có thái độ hoài nghi, thậm chí còn lo sợ về việc lây nhiễm HIV thông qua các tiếp xúc thông thường hằng ngày với người bệnh dẫn tới áp dụng những biện pháp phòng tránh sự lây truyền không đúng và mang tính phân biệt đối xử. Đối diện với sự phân biệt đối xử của dư luận, người bệnh không còn nơi bấu víu. Không ít trường hợp phải sống những ngày cuối đời trong sự cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực. Ở các trung tâm chăm sóc giai đoạn cuối, không ít người bệnh tuyệt vọng với đôi mắt lúc nào cũng hướng ra ngoài, họ ngóng chờ một khuôn mặt, một giọng nói quen thuộc của người thân. Không ít trong số họ đã mắc thêm chứng bệnh thần kinh khi bị chính người thân sao nhãng, bỏ quên, coi như họ chưa từng tồn tại trên thế gian này. Đám tang của họ được tổ chức chóng vánh, làm cho xong vì không có người thân lo toan, đưa tiễn, không tiếng khóc xót thương, cũng không có những giọt nước mắt đớn đau vì chia ly dành cho người quá cố. Có thể nói, họ không có quyền sống và chết đúng với phẩm giá như một con người.
Câu hỏi lớn đang được đặt ra là làm sao giúp người có HIV hòa nhập với cộng đồng để họ có quyền sống và quyền được tôn trọng, tránh kỳ thị và phân biệt đối xử?
Cần có cái nhìn mới mang tính chuyển đổi nhận thức
Đại dịch HIV/AIDS không chỉ dừng lại là căn bệnh thế kỷ mà còn là một vấn đề luân lý. Bởi vì AIDS không đơn thuần là vấn đề sức khỏe mà ngày càng liên quan tới con người toàn diện. HIV/AIDS không chỉ đặt vấn đề cho bản thân người bệnh mà còn cho nhiều thành phần khác và đang trở thành một thách thức cho toàn xã hội. Phòng ngừa HIV đòi hỏi toàn xã hội phải có một lối sống có trách nhiệm, đạo đức lành mạnh và việc chăm sóc bệnh nhân AIDS không chỉ đòi hỏi về nghiệp vụ mà còn cần đến lương tâm và tấm lòng của mỗi cá nhân và cả xã hội.
Khi nói về quyền con người, Công ước quốc tế, phần mở đầu cho các quyền dân sự, chính trị ghi rõ: “Tất cả mọi người đều có quyền sống; quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng”. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1992) đặc biệt đề cao và coi trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52); Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (Điều 71); Quyền được học tập (Điều 59; 66); Quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 61; 65)”. Luật Phòng, chống HIV/AIDS quy định: Người sống chung với HIV/AIDS có quyền “sống hòa nhập với cộng đồng và xã hội” (Điểm a, Khoản 1, Điều 4); “Không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ” nhằm “tạo điều kiện để người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt là các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. PGS, TS Chung Á - Chánh Văn phòng thường trực Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS - mại dâm - ma túy khẳng định: “Một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự đồng thuận giữa các cấp, các ngành đó là việc nhận thức đúng đắn và đầy đủ vai trò của việc tôn trọng, bảo vệ quyền con người trong phòng, chống HIV/AIDS”.
Pháp luật Việt Nam cũng nghiêm cấm thái độ và hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào với người mắc HIV/AIDS.
Điều 4, Luật phòng, chống HIV/AIDS ghi “quyền được học văn hóa, học nghề, làm việc”, tương ứng với quyền về lao động việc làm và quyền bình đẳng trong tiếp cận với giáo dục. Quyền này cũng ghi rõ trong Điều 59 và Điều 55 của Hiến Pháp. Tuyên ngôn nhân quyền thế giới cũng nêu rõ nội dung này ở Điều 26. Những người có HIV/AIDS rất cần được sự hỗ trợ của gia đình và xã hội. Nếu bị kỳ thị và phân biệt đối xử, họ gần như mất chỗ dựa cả về vật chất và tinh thần, làm họ mất hết lòng tự tin và như bị dồn vào ngõ cụt. Ngay cả những đứa trẻ vô tội, ngây thơ cũng trở thành nạn nhân của sự kỳ thị và phân biệt của thế giới người lớn.
Bên cạnh những quyền lợi mà người có HIV được hưởng, Điều 4, Luật Phòng, chống HIV/AIDS cũng nêu những nghĩa vụ và bổn phận của người nhiễm HIV là cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng lây nhiễm HIV sang người khác; thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính của mình cho người thân vợ/chồng, con cái; thực hiện các quy định về điều trị bằng thuốc kháng HIV khi được lên phác đồ điều trị; trên hết là tránh tự kỳ thị, sống lành mạnh, hợp tác tích cực trong việc bài trừ căn bệnh thế kỷ.
Đã đến lúc, mỗi người trong xã hội cần phải nhìn vào hoàn cảnh thực tiễn của người nhiễm HIV mà có hướng giúp họ vượt qua hơn là ép buộc. Nếu chúng ta nhìn được điểm tốt của họ, họ sẽ tự tin hơn. Phần chúng ta, chúng ta phải tôn trọng và đồng hành với họ, cần giúp cho người lớn và trẻ em hiểu được bản thân họ và giúp cho họ hiểu các khía cạnh khác của xã hội. Vì thế, điều khó nhất là làm sao giúp cho họ hiểu được giá trị của bản thân, nếu một người không nhìn thấy giá trị của mình thì rất khó để họ có được niềm hy vọng vượt qua và cộng tác trong điều trị.
Bảo vệ quyền sống và quyền được tôn trọng của người có HIV/AIDS sẽ tạo ra sự cởi mở, thân thiện, tự tin, đặc biệt là ý thức trách nhiệm của người nhiễm HIV/AIDS với người thân và cộng đồng. Bên cạnh đó, động viên nhóm người có HIV/AIDS cùng tham gia vào chiến dịch phòng, chống HIV/AIDS để họ thể hiện mình là một chủ thể hiện hữu. Người có HIV cần có thái độ tích cực và chủ động tiếp cận các thông tin có liên quan đến cuộc sống, quyền lợi, bổn phận của mình. Khi dám can đảm hiện diện trước cộng đồng trong cuộc sống hằng ngày, hình ảnh tự ti, mặc cảm sẽ dần dần biến mất, người bệnh sẽ trở nên quen thuộc và gần gũi, mọi người hiểu ra và xem họ như những người bình thường khác. Nếu muốn mọi người không phân biệt đối xử, thì bản thân người có HIV phải coi mình là người bình thường. Tạo thêm nhiều cơ hội cho họ hội nhập và tham gia trong cộng đồng như một nhân viên tích cực cùng phòng ngừa HIV, các trẻ được đến trường học, chăm sóc, yêu thương. Đây là nhân tố quan trọng giảm tác động tiêu cực, tiến tới đẩy lùi dịch HIV/AIDS./.
Lào giúp Việt Nam khắc phục hậu quả bão lũ  (28/10/2011)
Nga lại phóng thành công tên lửa đạn đạo Bulava  (28/10/2011)
Liên hợp quốc nhất trí tăng cường cuộc chiến chống cướp biển  (28/10/2011)
Việt Nam ủng hộ các chương trình của UNESCO  (28/10/2011)
Gặp gỡ hữu nghị thanh niên 2 nước Việt Nam - Lào  (28/10/2011)
Thông cáo số 7 kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII  (28/10/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm