Biến đổi khí hậu, nguy cơ nước biển dâng - Thách thức của cư dân định cư vùng biển, đảo
Dân không thể an cư
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau khiến cơ cấu sử dụng đất vùng ven biển Việt Nam đang chuyển dịch mạnh và có biểu hiện khá rõ về sự phát triển thiếu bền vững. Đặc biệt, trong bối cảnh ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, vấn đề ổn định cuộc sống cho hàng triệu người dân vùng biển, đảo và ven biển Việt Nam trở nên vô cùng cấp bách. Tổng hợp các báo cáo về biến đổi khí hậu cho thấy, các nước đang phát triển và các đảo quốc sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất từ sự biến đổi khí hậu, mặc dù các nước này không phải là tác nhân chính gây ra tình trạng nóng lên của trái đất. Việt Nam là một trong những quốc gia đó, "Việt Nam: mất 12% diện tích".
Cư dân sống trên đảo và ven biển của Việt Nam là 25 triệu người, bằng 31% dân số cả nước, có khoảng 20 triệu cư dân sống bằng nghề đi biển, nuôi trồng thủy sản, làm muối… tại 28/63 tỉnh, thành phố ven biển. Bộ phận sống nghèo khổ nhất tập trung vào các hộ ngư dân. Gia sản lớn nhất của họ là thuyền đánh cá. Họ đứng ngoài chương trình xuất khẩu thủy sản và đánh bắt xa bờ do không có vốn, thiếu hiểu biết về nuôi trồng thủy sản và/hoặc chỉ làm thuê cho các chủ tàu đánh cá xa bờ. Địa bàn cư trú của họ gần, sát biển, là vùng đất chịu nhiều tai biến thiên nhiên. Một thực tế khá nghiêm trọng là việc phá rừng ngập mặn ven biển để nuôi tôm xuất khẩu đã tàn phá hầu hết các khu sinh thái ven biển trên toàn quốc. Kết quả sau 10 năm, các ruộng nuôi tôm bị ô nhiễm làm tôm chết hàng loạt và chúng đang bị hoang hóa có nguy cơ sa mạc hóa do cát mặn lấn. Theo số liệu của Chương trình Hành động chống sa mạc hóa, Việt Nam có khoảng 9,3 triệu ha đất liên quan tới sa mạc hóa (chiếm 28% tổng diện tích đất trên toàn quốc), khoảng 2 triệu ha đất đang sử dụng đã bị thoái hóa nặng và hơn 2 triệu ha có nguy cơ thoái hóa cao.
Báo nguy từ thực tiễn
Theo thống kê của Tổ chức Lương thực thế giới (FAO) và Ủy ban Văn hóa, giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO), Việt Nam có khoảng 462 nghìn ha cát ven biển. 87,8 nghìn ha trong số này là các đụn cát, đồi cát lớn di động gây ra hiện tượng cát lấn đất canh tác, mỗi năm 10-20 ha. Một thực tế nữa là các vùng đầm phá miền Trung bị ô nhiễm nghiêm trọng cũng do ngăn ô nuôi tôm làm biến dạng hệ sinh thái quý giá này. Hiện nay nhiều vùng bờ biển nước ta đang xói lở với cường độ khác nhau, gia tăng cả quy mô lẫn tính chất nguy hiểm. Tốc độ xói lở tới từ 5 mét đến vài chục mét một năm. Cùng với sự gia tăng của các cơn bão, mực nước biển dâng (thêm 0,33m năm 2005 và 0,45m vào năm 2007) chắc chắn là những nguy cơ rất lớn đối với việc định cư của cư dân ven biển Việt Nam. Nhìn tổng quát, điều kiện định cư của cư dân biển đảo và ven biển Việt Nam là kém nhất so với các vùng dân cư khác. Do, hầu như họ rất ít được hưởng lợi từ các đầu tư công ích của Nhà nước như đối với cư dân trên đất liền (đường sá giao thông, điện chiếu sáng và các dịch vụ công…) nhất là khi họ thường xuyên phải lao động trên biển. Và, nơi cư trú của các làng chài, khu dân cư duyên hải lại luôn bị đe dọa bởi thiên tai hằng năm. Như thế, một chính sách định cư quán xuyến cả môi trường làm việc và cư trú đối với hàng chục triệu dân cư ven biển Việt Nam và trên các hải đảo là hết sức cần thiết. Song, cho đến thời điểm này, chúng ta vẫn đang chỉ làm thí điểm.
Phát triển bền vững kinh tế biển
Khai thác tiềm năng kinh tế, tài nguyên từ biển, nếu không có một ngành chủ đạo làm đầu mối, ngành nào cũng "ôm" về mình lợi thế, chắc chắn sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cao, thậm chí còn hủy hoại môi trường biển.
Vùng ven bờ và đại dương chứa đựng nhiều tài nguyên thiên nhiên mà tất cả các tài nguyên biển ở vùng bờ đều thuộc hệ thống tài nguyên chia sẻ, tức là không thuộc riêng một ngành nào. Vịnh Hạ Long cũng là một dạng tài nguyên chia sẻ và là tiềm năng để phát triển các ngành kinh tế biển, ven biển và các dịch vụ khác. Nó chứa đựng những giá trị phi vật thể, những giá trị dịch vụ, giá trị chức năng và cho đến thời điểm này, con người chưa khai thác một cách đa dạng về tiềm năng tương xứng vốn có mà chỉ chú trọng nhiều vào khai thác tiềm năng vật chất. Nhiều ngành kinh tế cùng khai thác, sử dụng trên một không gian bờ và đại dương trong khi chỉ dựa trên quản lý đơn ngành làm gia tăng mâu thuẫn lợi ích giữa ngành này với ngành khác trong việc sử dụng tài nguyên ở vùng bờ, đại dương và biển.
Các chuyên gia đã chỉ ra rằng, chúng ta thiếu quản lý liên ngành vùng bờ nên xu hướng môi trường, cơ sở tài nguyên vùng bờ bị suy thoái và không bền vững. Quản lý vùng bờ sẽ góp phần giảm thiểu các tác động của thiên tai, như xây dựng kế hoạch ứng phó với tràn dầu, ứng phó với thiên tai như sóng thần và biến đổi khí hậu đang diễn ra hiện nay. Bản chất của quản lý tổng hợp vùng bờ và đại dương là cơ chế phối hợp liên ngành trong quá trình ra quyết định những vấn đề tài nguyên, môi trường biển, vùng bờ và đại dương bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực và lợi ích trong địa bàn một tỉnh hoặc một địa phương. Trong quá trình quản lý tổng hợp vùng bờ, người dân được xem là một trong những yếu tố quan trọng, một trong những cơ chế để lôi cuốn người dân vào, gọi là đồng quản lý. Việc quản lý tốt bờ và vùng bờ biển sẽ là cơ sở quan trọng để phát triển bền vững kinh tế biển. Không những thế, chúng ta sẽ tối ưu hóa lợi ích kinh tế, xây dựng được chính sách quản lý phối hợp liên ngành và lựa chọn các hướng phát triển bền vững trước hết là cho cư dân biển, đảo và ven biển.
Nhiều chuyên gia khuyến cáo, vùng ven biển Quảng Ninh - Hải Phòng chỉ chọn bốn trục phát triển thay vì nhiều trục phát triển như hiện nay. Bởi vì, các quản lý đó làm cho các mũi nhọn “không chụm” vào nhau để thực sự phát huy được tác dụng và lựa chọn được các vấn đề ưu tiên. Đơn cử như vùng bờ biển từ Hải Phòng đến Móng Cái có hàng ngàn đảo lớn nhỏ và rất nhiều lợi thế tiềm năng phát triển kinh tế - một lợi thế mà trên thế giới không phải nơi nào cũng có, được coi là rất độc đáo, không thể sử dụng nó như đất liền. Những hòn đảo này có một đặc thù riêng và chúng ta phải tôn trọng tính đặc thù đó thì mới có thể tối ưu hóa được lợi ích phát triển, đồng thời gìn giữ, bảo vệ được tiềm năng đó lâu dài cho các thế hệ tương lai.
Tập trung quản lý thống nhất sẽ giảm thiểu được mâu thuẫn giữa các ngành trong quá trình phát triển. Quan trọng hơn, với người lao động ở vùng bờ và trên biển (đây là đối tượng dễ bị tổn thương nhất vì đa số là những người dân nghèo), xuất phát điểm của họ thấp, nguồn lực và cơ hội thấp trong quá trình hội nhập, do vậy khi xảy ra bất cứ sự cố, xâm hại đến giá trị tài nguyên, chất lượng môi trường, rủi ro môi trường thì những cộng đồng nghèo ở khu vực này phải gánh chịu nhiều nhất.
Hiện đang có một thực trạng là vùng bờ được quản lý bởi nhiều ngành, nhưng được quản lý đơn ngành, do vậy thiếu sự phối hợp liên ngành. Nghiêm trọng hơn, những giá trị tài nguyên, những chức năng nhất thể hóa thống nhất không thể chia cắt của hệ thống tài nguyên hoặc bị chia cắt bởi ranh giới hành chính, hoặc bị chia cắt bởi các bậc quản lý khác nhau, cho nên hiệu quả sử dụng một đơn vị biển, một đơn vị bờ tự nhiên là rất thấp./.
Hội thảo “Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị Khu Di tích Trung ương Cục miền Nam"  (07/08/2011)
Thông điệp của Thủ tướng nhân kỷ niệm 44 năm thành lập ASEAN  (07/08/2011)
Họp báo về kết quả kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII  (06/08/2011)
Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII thành công tốt đẹp  (06/08/2011)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm