Phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

PGS,TS. CHU QUANG THIỆN
Đại tá, Học viện An ninh nhân dân
10:40, ngày 23-11-2022

TCCS - Phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật là vấn đề hết sức quan trọng, góp phần bảo đảm cho quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được hiện thực hóa, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

1 - Nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao và cấp bách nhằm đáp ứng sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ trao đổi với các đại biểu dự Toạ đàm chuyên gia một số nội dung phục vụ việc xây dựng chuyên đề hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 _Ảnh: Tư liệu

Mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của Đảng là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, mà trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng. Để đạt được mục tiêu đó, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cơ quan lập pháp đã tập trung thực hiện công tác xây dựng pháp luật, trong đó, chú trọng sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới nhiều bộ luật, xây dựng các luật quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, môi trường, dân tộc, tôn giáo, y tế, quốc phòng - an ninh, trật tự, an toàn xã hội phù hợp với tình hình thực tiễn... nhằm tạo lập hệ thống pháp lý vững chắc, lành mạnh, hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24-5-2005, “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, công tác xây dựng pháp luật đã có những kết quả rất tích cực, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, từ tháng 5-2005 đến tháng 8-2021, Quốc hội đã ban hành hơn 300 văn bản pháp luật (mỗi năm trung bình khoảng 19 văn bản); trong khi, 20 năm đổi mới trước đó (1986 - 2005) mới ban hành tổng số 140 văn bản pháp luật, trung bình mỗi năm khoảng 7 văn bản (1).

Xây dựng pháp luật là hoạt động phức hợp bao gồm nhiều hoạt động nối tiếp nhau theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền với chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Mỗi giai đoạn trong quy trình xây dựng pháp luật được hoàn thành là một lần củng cố thêm tính logic, khoa học, phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Xây dựng pháp luật là một trong những phương diện hoạt động quan trọng nhất của Nhà nước, nhằm mục đích trực tiếp tạo ra các quy phạm pháp luật, cũng như sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy phạm một cách phù hợp nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội đang diễn ra. Hiểu một cách khái quát, xây dựng pháp luật là hoạt động soạn thảo, ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ các quy định của pháp luật cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội.

2 - “Diễn biến hòa bình” là khái niệm đã được nhiều công trình nghiên cứu, đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Hiểu một cách phổ biến và khái quát: “Diễn biến hòa bình” là diễn biến dần dần, đi đến cuối cùng chuyển sang một chế độ chính trị khác, không qua bạo lực (thường nói về chiến lược không dùng chiến tranh mà dùng hàng loạt phương thức và thủ đoạn, nhằm tạo ra một quá trình diễn biến hòa bình để lật đổ chế độ chính trị ở nước khác) (2).

“Diễn biến hoà bình” trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam là hoạt động của các thế lực thù địch thông qua các phương thức, thủ đoạn phi quân sự tác động, can thiệp, gây sức ép vào quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam, từ đó, hướng lái, chuyển hóa, tiến tới thay đổi bản chất hệ thống pháp luật và chế độ chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thực tiễn cho thấy, các thế lực thù địch tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với nước ta trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay, lĩnh vực xây dựng pháp luật được coi là tâm điểm công phá của chiến lược “diễn biến hòa bình”. Bởi, pháp luật không chỉ là vấn đề pháp lý mà còn là vấn đề sống còn của chế độ chính trị, của thượng tầng kiến trúc xã hội.

Hệ thống pháp luật nước ta thể hiện vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng; ý chí, bản chất chính trị của Nhà nước, là công cụ để quản lý, điều hành xã hội, duy trì trật tự, kỷ cương, pháp chế của Nhà nước. Do đó, thế lực thù địch luôn hướng tới mục tiêu chi phối quá trình lập pháp, gây sức ép, tác động, chuyển hóa, hướng lái hệ thống pháp luật Việt Nam theo ý đồ của chúng là thay đổi bản chất hệ thống pháp luật Việt Nam theo quan điểm giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây; tạo cơ sở, hành lang pháp lý cho việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, thay đổi bản chất giai cấp, bản chất chế độ chính trị của hệ thống pháp luật, tiến tới thay đổi chế độ chính trị của Nhà nước ta (?!).

3 - Trong thực tiễn hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực xây dựng pháp luật ở Việt Nam với các phương thức, thủ đoạn rất đa dạng, có thể chỉ ra các thủ đoạn phổ biến sau:

Thứ nhất, thông qua tài trợ các chương trình, dự án hợp tác về xây dựng pháp luật với nguồn kinh phí lớn trong vỏ bọc hỗ trợ xây dựng pháp luật nhưng lại đưa ra những yêu cầu, khuyến nghị sửa đổi pháp luật, can thiệp, tác động vào quá trình xây dựng, ban hành pháp luật của Việt Nam, nhất là trong giai đoạn dự thảo chương trình, đề án, dự án xây dựng luật, giai đoạn soạn thảo luật và thảo luận, giai đoạn tiếp thu, chỉnh lý, thông qua dự án luật. Mặt khác, các thế lực thù địch lợi dụng việc triển khai các dự án, chương trình tài trợ, hội nghị, hội thảo với vỏ bọc hỗ trợ các cơ quan có chức năng lập pháp Việt Nam xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để thu thập thông tin có giá trị về hệ thống pháp luật Việt Nam phục vụ cho mục đích tác động, hướng lái pháp luật Việt Nam theo ý đồ của họ…

Thứ hai, tìm cách quan hệ, móc nối, tiếp xúc với cán bộ làm việc tại các cơ quan tham mưu, hoạch định, xây dựng chính sách, pháp luật, với mục đích tác động, hướng lái pháp luật Việt Nam, như mời cán bộ thuộc các cơ quan lập pháp, tư pháp của Việt Nam đi tham quan, nghiên cứu mô hình hệ thống tư pháp ở nước ngoài nhằm tác động làm thay đổi quan điểm, tư tưởng, nhận thức; thậm chí tham gia các hoạt động chống Đảng, Nhà nước.

Thứ ba, tác động, kích động các đối tượng chống đối, bất mãn tuyên truyền, phê phán việc xây dựng nhà nước pháp quyền nói chung, hệ thống pháp luật nói riêng và công cuộc cải cách tư pháp của Nhà nước ta nhằm làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Chẳng hạn, hoạt động lấy danh nghĩa tài trợ cho giới luật gia Việt Nam mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng quản lý cho luật sư trong nước để tác động, khuyến khích họ phát biểu, phê phán hệ thống pháp luật Việt Nam; lôi kéo số luật gia có trình độ, có uy tín nhưng có tư tưởng đa nguyên, những đối tượng chống đối, có dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tuyên truyền, xuyên tạc quan điểm, chính sách, pháp luật Việt Nam, tuyên truyền các quan điểm pháp lý tư sản.

Thứ tư, lợi dụng các hiệp định thương mại, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia để tác động, yêu cầu sửa đổi pháp luật. Gần đây nhất là việc nước ta ký kết tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó cài ẩn một số điều khoản tạo tiền đề pháp lý để các “tổ chức xã hội” trong nước phát triển, dần tự do và thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước Việt Nam, tiến tới hình thành tổ chức chính trị đối lập.

Thứ năm, đưa ra các tuyên bố, kiến nghị tập thể, kích động biểu tình, gây rối để tuyên truyền, gây sức ép đến các cơ quan nhà nước mỗi khi có những chính sách, pháp luật mới được ban hành hoặc trong quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật nhằm mục đích gây bất ổn tình hình chính trị - xã hội. Thông qua các cơ chế dân chủ, nhân quyền, các phiên đối thoại song phương, các tổ chức nước ngoài đưa ra những đánh giá sai lệch rằng, pháp luật Việt Nam không bảo đảm các cam kết quốc tế, yêu cầu Việt Nam phải sửa đổi pháp luật theo ý đồ của họ. Chẳng hạn, như yêu cầu Việt Nam phải sửa đổi, ban hành các luật liên quan đến thể chế chính trị, thể chế kinh tế, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, quyền con người... Bên cạnh đó, lợi dụng các vụ, việc phức tạp về an ninh, trật tự trong nước, các đối tượng phản động bên ngoài móc nối với các đối tượng chống đối trong nước tuyên truyền, xuyên tạc tình hình, tạo dư luận tiêu cực, phản đối chính sách, pháp luật, kích động biểu tình, bạo loạn…

Thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các cơ quan, ban, ngành và các lực lượng chức năng, mà nòng cốt là lực lượng an ninh nhân dân, đã chủ động tổ chức công tác phòng ngừa, phát hiện, sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp đấu tranh hết sức linh hoạt và hiệu quả đối với hoạt động “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật. Nhờ đó, các đơn vị chức năng đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động can thiệp, tác động, chuyển hóa quá trình xây dựng pháp luật ở nước ta. Cũng qua thực tiễn công tác phòng ngừa, đấu tranh, đã góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về âm mưu, phương thức, thủ đoạn, sự nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” đối với lĩnh vực xây dựng pháp luật mà các thế lực thù địch đang tiến hành. Trên cơ sở đó, từng bước đổi mới tư duy, quan điểm, biện pháp để vừa phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả mà vẫn có thể góp phần phục vụ tích cực cho chủ trương đẩy mạnh hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút các nguồn lực, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội nói chung và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng.

Trong 5 năm qua, với các biện pháp nghiệp vụ, lực lượng an ninh Việt Nam đã phát hiện một số cá nhân, tổ chức có hoạt động “diễn biến hòa bình” đối với lĩnh vực xây dựng pháp luật cụ thể và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền không gia hạn, yêu cầu sửa đổi giấy đăng ký hoạt động đối với hàng ngàn lượt tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam; kiến nghị không cấp giấy đăng ký hoạt động hoặc rà soát, loại bỏ hàng chục tổ chức phi chính phủ nước ngoài vì lý do an ninh. Trong đó có nhiều hoạt động, dự án tiềm ẩn nguy cơ cao về an ninh quốc gia; phát hiện một số chuyên gia, cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “chệch hướng tư tưởng”…

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật ở nước ta còn có một số hạn chế nhất định. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa được một số cơ quan, ban, ngành chức năng quan tâm đúng mức. Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với hoạt động xây dựng pháp luật còn chưa thực sự chặt chẽ nên chưa phát hiện từ xa, từ sớm âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên là do: Nhận thức của một số cán bộ, lãnh đạo cơ quan, ban, ngành về âm mưu, hoạt động, phương thức, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam của các thế lực thù địch vẫn chưa đầy đủ, sâu sắc, thậm chí còn lơ là, mất cảnh giác trước các hoạt động có dấu hiệu can thiệp, tác động, chuyển hóa; công tác quản lý nhà nước, công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp tiến hành phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật còn chưa kịp thời và hiệu quả; việc triển khai các biện pháp phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật chịu áp lực từ yếu tố chính trị, đối ngoại…

4 - Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật thời gian tới, các cơ quan, ban, ngành chức năng, trong đó, nòng cốt là lực lượng an ninh nhân dân các cấp cần nghiên cứu, triển khai thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật. Cần quán triệt đầy đủ và sâu sắc hơn nữa các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp theo Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật, hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,… gắn với chủ động phòng ngừa các nguy cơ đe dọa xâm hại an ninh quốc gia, đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Trong đó, hoàn thiện đồng bộ thể chế, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là một trong những đột phá chiến lược; bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh và liên quan đến quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân _Nguồn: baovephapluat.vn

Hai là, làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật. Tham mưu cho các cơ quan, ban, ngành trong việc soạn thảo, ban hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp. Tham mưu, đề xuất sửa đổi, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về an ninh, trật tự trong hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, quản lý hoạt động của các cơ quan, tổ chức nước ngoài,… và kiên quyết loại bỏ những chương trình, dự án có dấu hiệu vi phạm, xâm phạm đến an ninh quốc gia. Tham mưu nội dung về bố trí, sử dụng nhân sự đối với các cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách, pháp luật và đại biểu các cơ quan dân cử có chức năng xây dựng, sửa đổi pháp luật.

Chủ động kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền loại bỏ các yếu tố có thể trở thành điều kiện để các thế lực thù địch gia tăng hoạt động móc nối, tác động, can thiệp vào quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật ở nước ta. Đồng thời, các cơ quan tư pháp, cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật cần chú trọng nắm tình hình những yếu tố liên quan tới dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “chệch hướng tư tưởng” của một số cán bộ, đảng viên trong nội bộ, vấn đề “dân chủ nghị trường”, “phản biện chính sách” để kịp thời tham mưu lãnh đạo các cấp có các biện pháp phòng ngừa, răn đe, chấn chỉnh, xử lý, tránh gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị nội bộ, ảnh hướng đến công tác xây dựng pháp luật.

Ba là, chú trọng công tác vận động quần chúng, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về âm mưu, hoạt động, phương thức, thủ đoạn, sự nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong xây dựng pháp luật ở nước ta. Thời gian tới, các cơ quan chức năng cần phối hợp chỉ đạo các cơ quan báo chí tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong quần chúng nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng. Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật, nhất là phổ biến rộng rãi các dự thảo luật đang được xây dựng, định hướng dư luận xã hội về nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của các văn bản luật đối với xã hội, với người dân; đồng thời, vạch trần âm mưu, ý đồ của các thế lực thù địch lợi dụng quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật để thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam. Chú trọng việc tổ chức tập huấn, tọa đàm, sinh hoạt chính trị nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên làm việc tại các cơ quan lập pháp, tư pháp; cơ quan tiếp nhận, thụ hưởng các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài về xây dựng pháp luật; cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật; cơ quan tiến hành hợp tác quốc tế về xây dựng pháp luật; luật sư trong các liên đoàn luật sư, hội luật gia... Tích cực phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật.

Bốn là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trong xây dựng pháp luật, đặc biệt là về hợp tác quốc tế trong xây dựng pháp luật. Các cơ quan, ban, ngành hữu quan cần thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trong xây dựng pháp luật. Quản lý chặt chẽ hoạt động của các tổ chức nước ngoài, nhất là các tổ chức phi chính phủ nước ngoài và trong nước đã, đang hoặc chuẩn bị đầu tư thực hiện các dự án, chương trình về xây dựng pháp luật của Việt Nam. Các cơ quan chức năng cần phối hợp, tham gia thẩm định các dự án, chương trình có dấu hiệu phức tạp trong việc hỗ trợ xây dựng pháp luật, cảnh báo, khuyến nghị kịp thời âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch đến các cơ quan, đơn vị hoạch định chính sách. Quản lý chặt chẽ công tác hợp tác quốc tế trong xây dựng pháp luật, các hội nghị, hội thảo quốc tế, các chương trình tài trợ, dự án liên quan đến xây dựng pháp luật tại Việt Nam. Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư và các tổ chức nghề nghiệp, nhất là số đối tượng khoác áo “cấp tiến” trong nước có mối quan hệ, tiếp xúc với cá nhân, tổ chức nước ngoài; các đối tượng xấu, có quan điểm sai trái, thù địch./.

---------------------------

(1) Xem: Báo cáo tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24-5-2005, của Bộ Chính trị khóa IX, “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”
(2) Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr. 256