Định hướng giải pháp thực hiện ba đột phá chiến lược theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

PGS, TS. Vũ Văn Phúc
Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương
23:37, ngày 13-08-2021

TCCS - Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: Ba đột phá chiến lược (hoàn thiện đồng bộ thể chế; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng)(1) vừa kế thừa ba đột phá chiến lược do Đại hội lần thứ XI, XII đã đề ra, vừa bổ sung, cụ thể hóa cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Vì vậy, cần huy động đầu tư nguồn lực và đặc biệt tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự chuyển biến về chất trong việc thực hiện ba đột phá chiến lược.

Định hướng giải pháp thực hiện đột phá chiến lược thứ nhất

Thứ nhất, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật.

Điều kiện tiên quyết để thực hiện hiệu quả đột phá chiến lược thứ nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phải đầy đủ, đồng bộ, thực sự hiệu lực, hiệu quả. Do vậy, cần không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, hệ thống chính sách, pháp luật. Tính đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật thể hiện ở hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể, minh bạch làm cơ sở để xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực, phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập. Hệ thống chính sách, pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới. Đồng thời, việc thực thi pháp luật phải hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh.

 Thứ hai, cơ chế thông thoáng, linh hoạt nhằm tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi.

Cơ chế, chính sách cần thực sự thông thoáng, linh hoạt nhằm tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi. Bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường. Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do sản xuất,  kinh doanh, nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động khởi nghiệp. Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu (theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới - WB).

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính kiểm tra công tác phòng, chống dịch COVID-19 và duy trì sản xuất tại Công ty Nissei Electric Việt Nam (Khu chế xuất Linh Trung, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh)_Nguồn: zing.vn

Thứ ba, phân cấp, phân quyền minh bạch, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện các nhiệm vụ.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường kinh tế - xã hội, pháp lý,... cho các chủ thể kinh tế phát triển; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi trường,... Đồng thời, đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền minh bạch, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách nhà nước và trách nhiệm xã hội của các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế. Khuyến khích làm giàu hợp pháp. Dứt khoát xóa bỏ cơ chế “xin - cho”. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng, cùng phát triển theo pháp luật. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Thực hiện nguyên tắc ngành, nghề, lĩnh vực, mặt hàng gì tư nhân, người dân làm tốt thì để tư nhân, người dân làm. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng - an ninh.

Nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế địa phương và kinh tế vùng trên cơ sở phát huy hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, địa phương.

Thứ tư, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực chặt chẽ, hiệu quả.

Quyền lực là năng lực, khả năng của một tổ chức hay cá nhân, tác động đến hành động, hành vi của những người khác, buộc họ phải thực hiện ý chí của mình thông qua các phương tiện, phương thức nào đó, như uy tín, quyền hành, cơ chế, chính sách, quy định, thậm chí cưỡng bức thực hiện. Quyền lực của tổ chức, nhóm người, thậm chí của một người, khi đã được nhân dân trao cho rồi thì rất dễ bị tha hóa. Tha hóa là sự làm biến chất thành xấu đi hoặc thành cái khác đối nghịch lại. Tha hóa quyền lực là việc thực hiện không đúng, không đầy đủ, không hết hoặc vượt quá quyền lực được trao trong quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, như lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, không thực hiện hay thực hiện không hết quyền lực được trao. Có sự tha hóa quyền lực của cả một tổ chức, của cả một nhóm người, thậm chí của một cá nhân. Xã hội càng văn minh thì sự tha hóa quyền lực càng tinh vi. Để hạn chế sự tha hóa quyền lực, cần phải có sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhân dân trao cho tổ chức, nhóm người, cá nhân. Quyền lực bị tha hóa mà không có kiểm soát thì sẽ gây nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội, nhân dân. Trao quyền lực, thực thi quyền lực cũng đồng thời với việc phải kiểm soát quyền lực.

Kiểm soát quyền lực thông qua chế độ công khai, minh bạch mọi công việc của đất nước, nhân dân: Công khai, minh bạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tất cả các tổ chức, cơ quan, đơn vị, cá nhân (từ người giữ cương vị cao nhất đến cán bộ, công chức, viên chức) để nhân dân kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện; công khai, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được trao quyền lực; thông qua việc kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, nhân dân, công luận... Nhân dân có quyền chất vấn, yêu cầu cơ quan nhà nước phải giải trình, có quyền phản đối những việc làm sai trái, có quyền yêu cầu cán bộ không đủ tư cách phải từ chức hoặc bị cách chức... Xây dựng và thực thi cơ chế, chế tài đủ mạnh để các tổ chức bộ máy, nhóm người, cá nhân được giao quyền lực phải thực hiện đúng, đầy đủ, có trách nhiệm chức trách, nhiệm vụ được giao, không dám - không thể - không muốn lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì mục đích, lợi ích cá nhân.

Thứ năm, huy động hiệu quả tất cả các nguồn lực cho phát triển.

Muốn kinh tế - xã hội phát triển thì phải có đầy đủ nguồn lực cho phát triển. Cần có cơ chế, chính sách huy động hiệu quả nhất mọi nguồn lực của xã hội, của dân tộc và nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Thực hiện bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực, các yếu tố đầu vào của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế. Hoàn thiện và thực thi có hiệu quả các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch trong tiếp cận các nguồn lực, nhất là đất đai, tài nguyên, nguồn lực công, đầu tư công. Tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước; kiểm soát, ngăn chặn, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp. Hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Dù lựa chọn các đột phá chiến lược đúng đến đâu mà không có nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính bảo đảm thì việc thực thi các đột phá sẽ không có hiệu quả. Nhu cầu về nguồn lực để thực hiện các đột phá chiến lược rất lớn trong khi khả năng huy động, khai thác nguồn lực nhằm bảo đảm và đáp ứng được nhu cầu đó lại chỉ rất hạn chế và gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là nhu cầu về vốn đầu tư.

Điều kiện tiền đề để tăng cường huy động nguồn lực tài chính là phát triển nguồn lực tài chính. Việc phát triển các nguồn lực tài chính trong nước phụ thuộc vào quy mô, tốc độ, chất lượng tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ tiết kiệm so với tổng sản phẩm trong nước (GDP).

Trong thời gian qua, các quan điểm, chủ trương về hoàn thiện thể chế, xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng đã được thể hiện trong nhiều chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước... Đó là những tiền đề thuận lợi, tạo khả năng phát triển hệ thống doanh nghiệp - nền tảng sức mạnh kinh tế và cơ sở phát triển tiềm lực kinh tế, tài chính của đất nước.

Tuy nhiên, việc đưa ra chủ trương, cụ thể hóa bằng hệ thống pháp luật chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là hiệu quả và hiệu lực thực thi các quy định pháp luật đó trong thực tế. Điều đó đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung các cơ chế, chính sách cụ thể để tháo gỡ khó khăn của các chủ thể kinh tế về tiếp cận đất đai bảo đảm mặt bằng kinh doanh, tiếp cận nguồn vốn tín dụng, bảo đảm các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm, phát triển và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học - công nghệ,... Đồng thời, việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cải cách các thủ tục hành chính có liên quan, như kê khai và nộp thuế, hải quan, đất đai, tiếp cận điện và nước,... có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường kinh doanh và do đó, tạo tiền đề để tăng cường phát triển nguồn lực tài chính thuận lợi.

Thứ sáu, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển.

Muốn thực hiện thắng lợi ba đột phá chiến lược thì cơ chế, chính sách phân bổ, quản lý, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước, như nguồn lực đất đai, tài nguyên, lao động, tài chính,... cần được đổi mới phù hợp với điều kiện của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là Nhà nước phải sử dụng hợp lý các quan hệ thị trường, các tín hiệu thị trường và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong dài hạn để xác định phương hướng và các công cụ phù hợp trong phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực của xã hội và nguồn lực tài chính của Nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất xã hội.

Xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất đai. Phương hướng dài hạn về phân bổ các nguồn lực tài chính (lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư, quy mô đầu tư,...) được thể hiện trong chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước và cụ thể của các ngành, lĩnh vực, địa phương và vùng lãnh thổ. Để phát huy vai trò là công cụ định hướng phân bổ các nguồn lực tài chính vào đầu tư phát triển, cần phải thay đổi cơ bản phương pháp xây dựng và nội dung của các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thay vì xác định cụ thể các chỉ tiêu phát triển mang nặng tính chủ quan trong tính toán, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, cần tập trung nhiều hơn vào đánh giá tiềm năng và lợi thế thực của đất nước, phân tích cơ hội và thách thức trong dài hạn, dự báo xu thế phát triển khoa học - công nghệ và nhu cầu thị trường,... để đưa ra định hướng phát triển chung của các ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ.

Nhà nước cần tập trung nguồn lực tài chính vào các lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế, như hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển đất nước, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được xác định ưu tiên, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng đầu tư. Nhà nước không nên phân bổ vốn đầu tư mới vào các ngành mà khu vực tư nhân có khả năng và sẵn sàng đầu tư, kinh doanh. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý sử dụng các nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển. Thực tế nước ta, vấn đề cần quan tâm giải quyết là đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý sử dụng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu chính phủ nhằm khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, chồng chéo, kéo dài thời gian thực hiện dự án, nợ đọng vốn đầu tư cơ bản, hiệu quả đầu tư kém, gây lãng phí vốn đầu tư, đặc biệt là tình trạng phân cấp quyết định đầu tư quá rộng, nhưng lại thiếu các biện pháp quản lý đồng bộ, hữu hiệu và cơ chế “xin - cho” trong phân bổ nguồn lực tài chính của Nhà nước.

Định hướng giải pháp thực hiện đột phá chiến lược thứ hai

Một là, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, phát huy mạnh mẽ tiềm năng sáng tạo của người lao động.

Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, trọng tâm là hiện đại hóa và thay đổi phương thức giáo dục - đào tạo, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp.

Khuyến khích và tăng cường đầu tư phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo để cải thiện năng suất và phát triển vốn con người. Tăng trưởng kinh tế trong dài hạn của Việt Nam phải dựa trên nền tảng lao động chất lượng cao với khả năng sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới. Đối với hệ thống giáo dục - đào tạo, thay vì mở rộng quy mô như hiện nay, cần chú trọng xây dựng và hỗ trợ phát triển các trường đại học/chương trình đào tạo trọng điểm chất lượng cao, tách biệt với các trường/chương trình đào tạo vì mục tiêu tài chính hay vì mục tiêu phổ cập. Các trường đại học/chương trình đào tạo trọng điểm này, cần cạnh tranh với nhau để nhận sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước, xã hội nhằm thu hút các giảng viên và sinh viên ưu tú, làm nòng cốt cho sự phát triển khoa học - công nghệ và thúc đẩy tăng trưởng của kinh tế trong tương lai. Đối với hệ thống khoa học - công nghệ, cần xây dựng lại chuẩn mực khoa học trong hệ thống nghiên cứu; sửa đổi và ban hành các chính sách miễn, giảm thuế cho đầu tư phát triển công nghệ theo hướng dễ thực hiện hơn; xây dựng cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học - công nghệ theo hướng cạnh tranh và bình đẳng với tất cả các cơ sở nghiên cứu của Nhà nước cũng như tư nhân; cần có những chính sách để liên kết hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học tại các trường đại học, các viện nghiên cứu trọng điểm với khu vực doanh nghiệp.

Khuyến khích và tăng cường đầu tư phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo để cải thiện năng suất và phát triển vốn con người (Trong ảnh: Nghiên cứu khoa học tại Viện Công nghệ Nano, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)_Nguồn: vnuhcm.edu.vn

Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tính tích cực của người lao động.

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng phải cao cả về sức khỏe, trí tuệ, năng lực, trình độ, ý thức, trách nhiệm. Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục - đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhất là nhân lực công nghệ kỹ thuật số, quản trị công nghệ, quản lý và quản trị doanh nghiệp, quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người,... Nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng chủ lực trong quá trình đổi mới sáng tạo, phát triển đất nước. Làm sao để mọi lĩnh vực, ngành, nghề trong nước đều xác định rõ trọng điểm đầu tư và mục tiêu phát triển nguồn nhân lực công nghệ (có tri thức công nghệ, có khả năng làm chủ công nghệ, có thể thực hiện các hoạt động trong môi trường công nghệ cao).

Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn lao động, hình thành đội ngũ lao động lành nghề, thúc đẩy tính tích cực của người lao động, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục - đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế.

Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài; có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia, nhà khoa học cả trong và ngoài nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức có phẩm chất tốt, chuyên nghiệp, tận tụy, phục vụ nhân dân. Như vậy, ngoài việc tiếp tục khẳng định với yêu cầu đẩy nhanh đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; cần ưu tiên trọng tâm mới là hiện đại hóa và thay đổi phương thức giáo dục - đào tạo, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Bên cạnh đó, hai điểm mới đáng chú ý thêm là: 1- Có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài; 2- Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và công chức.

Ba là, nâng cao tỷ lệ ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất, thời gian ứng dụng nhanh.

Muốn phát triển đất nước nhanh và bền vững, đạt được các mục tiêu như Đại hội XIII của Đảng đề ra, một đòi hỏi bức thiết là phải nâng cao năng suất lao động xã hội. Trong khi đó, một trong những yếu tố cốt lõi để nâng cao năng suất lao động xã hội là phải ứng dụng, sử dụng những thành tựu tiên tiến, hiện đại của khoa học - công nghệ trong nhiều ngành, nghề, lĩnh vực; tỷ lệ ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất càng cao, thời gian ứng dụng càng nhanh, càng nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh, tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế đất nước.

Đối với lĩnh vực khoa học - công nghệ, điểm mới là nội dung: Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nhằm mục tiêu tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, đồng thời xác định cần có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ, lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số.

Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ để thúc đẩy sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động.

Khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao năng lực hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu khoa học  - công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm.

Khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động xã hội. Đó là cơ sở, nền tảng để đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, làm động lực cho tăng trưởng, phát triển theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số ngành, lĩnh vực so với khu vực, thế giới. 

Phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo cơ hội thực hiện hiệu quả và thực chất các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế để đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng năng suất lao động xã hội nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh. Thúc đẩy phát triển kinh tế số, sản xuất thông minh, các mô hình sản xuất, kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử... Thực hiện chuyển đổi số trong tất cả các doanh nghiệp, nền kinh tế và các cơ quan nhà nước. Ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, con người, quốc phòng - an ninh trọng yếu. Phát triển hạ tầng số và bảo đảm an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn tiếp cận nguồn tài nguyên số, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn.

Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, công nghệ thông tin vào lĩnh vực truyền tải điện, phục vụ sản xuất_Ảnh: TTXVN

Năm là, phát huy mạnh mẽ khát vọng phát triển của con người Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam luôn luôn có khát vọng phát triển mạnh mẽ. Trong bức thư gửi các cháu học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(2). Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định phải khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa... phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thu nhập cao.

Sáu là, phát huy giá trị văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, ngày càng tiến bộ, lành mạnh, hiện đại.

Xây dựng, phát triển và phát huy giá trị văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, ngày càng tiến bộ, lành mạnh, hiện đại, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam. Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị văn hóa truyền thống và giá trị hiện đại. Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế; đề cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo pháp luật. Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các quy định, quy ước xã hội, bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hóa. Văn hóa phải phát huy được những năng lực bản chất của con người Việt Nam. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp... Khắc phục bệnh thành tích, bệnh hình thức, thực hiện các chuẩn mực văn hóa gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và văn minh. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh. Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội. Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam; đồng thời, bảo vệ, giữ gìn tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau. Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa.

Bảy là, phát huy mạnh mẽ sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng cơ chế, chính sách phát huy sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Con người Việt Nam có những phẩm chất tạo nên sức mạnh vô địch, như cần cù, chăm chỉ, thông minh, sáng tạo, sức chịu đựng dẻo dai, ý thức tổ chức kỷ luật, ý chí tự lực, tự cường cao... Những phẩm chất tốt đẹp này, không phải người nước nào cũng có được. Phát huy, khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam, gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh, thiếu niên. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nâng cao chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nâng cao mức sống và chỉ số hạnh phúc của nhân dân.

Định hướng giải pháp thực hiện đột phá chiến lược thứ ba

Thứ nhất, tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại; đẩy mạnh liên kết vùng, khu vực và quốc tế thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó:

Ưu tiên đầu tư các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia, quy mô lớn, nhất là về giao thông, năng lượng và hạ tầng số để khắc phục cơ bản những điểm nghẽn cho phát triển, tăng cường kết nối với khu vực và thế giới.

Phấn đấu về cơ bản hoàn thành hệ thống giao thông đường bộ cao tốc Bắc - Nam, kết nối các trung tâm đô thị lớn gắn với các trục hành lang kinh tế. Kết cấu hạ tầng đường bộ kết nối với đường cao tốc, hệ thống đường sắt, cảng biển và cảng hàng không, bảo đảm phát triển các dịch vụ vận tải đa phương thức và lô-gi-stíc. Kết cấu hạ tầng đường sắt Việt Nam được đầu tư, bảo đảm vận hành xe tốc độ cao kết nối thuận lợi với hệ thống cảng biển và hệ thống đường bộ.

Kết cấu hạ tầng cảng biển được tập trung đầu tư bảo đảm năng lực và chất lượng dịch vụ tại các khu vực cụm cảng số I (phía Bắc - hạt nhân là cảng Lạch Huyện) và cụm cảng số V (hạt nhân là cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải). Các cảng hàng không quốc tế được xây dựng, nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo điều kiện kết nối dễ dàng với các cảng hàng không nội địa. Sân bay quốc tế Long Thành được đầu tư với quy mô 4F theo mã chuẩn của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) và có thể trở thành sân bay trung chuyển quốc tế, cùng với hệ thống cảng biển tạo điều kiện mở rộng không gian phát triển, hội nhập quốc tế.

Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại tổ chức không gian lãnh thổ quốc gia một cách hợp lý, phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới. Khai thác tốt hơn thế mạnh của các vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa - chính trị, nguồn nhân lực trong bối cảnh và yêu cầu phát triển mới. Nâng cao hiệu quả hoạt động và đổi mới cơ chế quản lý, mô hình phát triển của các khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch gắn với đô thị hóa trở thành động lực phát triển vùng. Tập trung xây dựng các hành lang kinh tế trọng điểm, thúc đẩy liên kết, hội nhập quốc tế và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm trí tuệ nhân tạo tại các vùng trọng điểm. 

Phát triển đồng bộ, hiện đại hạ tầng văn hóa - xã hội với kết cấu hạ tầng kinh tế.      

Thứ hai, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, kết cấu hạ tầng các đô thị lớn được quy hoạch căn bản, tạo ra bước thay đổi lớn trong phát triển kinh tế - xã hội các đô thị.

Ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, kết cấu hạ tầng các đô thị lớn,... Tập trung phát triển mạng lưới đường bộ cao tốc, đầu tư, nâng cấp các cảng hàng không, đặc biệt là cảng hàng không trọng điểm. Đến năm 2030, phấn đấu cả nước có khoảng 5.000km đường bộ cao tốc, trong đó đến năm 2025, hoàn thành đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông. Xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành và mở rộng Cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống cảng biển... Quan tâm đúng mức phát triển giao thông đường sắt, triển khai xây dựng một số đoạn đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng hàng không, cảng biển. Ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông cho vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền núi phía Bắc và các vùng khó khăn khác...

Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại tạo thuận lợi liên kết vùng, khu vực và quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội_Ảnh: Đỗ Tuấn Hùng

Kết cấu hạ tầng các đô thị lớn được quy hoạch căn bản, tạo ra bước thay đổi lớn trong phát triển kinh tế - xã hội các đô thị. Đầu tư các công trình giao thông trọng yếu theo quy hoạch, nhất là tuyến vành đai, đường xuyên tâm các đô thị lớn... Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, giải quyết các điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng giao thông. Tập trung đầu tư xây dựng các bãi đỗ xe, các công trình đầu mối về cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, rác thải, giảm đáng kể tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước tại các đô thị lớn...

Kết cấu hệ thống hạ tầng đô thị được định hình bảo đảm thực hiện được chức năng kết nối quốc tế và chuyển tải các cơ hội phát triển cho những khu vực khác, đặc biệt là nông thôn trong một mô hình tổ chức không gian mới, rộng mở cho quá trình hội nhập và phát triển. Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh sẽ là hai cực tăng trưởng lớn của quốc gia, những thành phố có năng lực sáng tạo và cạnh tranh toàn cầu. Trong khi đó, các đô thị nhìn chung được phát triển theo hướng các đô thị thông minh, đô thị xanh, cạnh tranh và bền vững.

Thứ ba, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng năng lượng hiện đại, phục vụ hiệu quả yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, giảm tiêu hao nhiên liệu, tăng hiệu quả sử dụng.

Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Phát triển mạnh nguồn năng lượng hợp lý, thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch. Tập trung phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế, như công nghiệp năng lượng, công nghiệp môi trường, công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu,... Xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường, các-bon thấp, các quá trình năng lượng (diễn ra trong tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội) được bảo đảm hiệu quả hơn, tương tác môi trường ít hơn. Mức tiêu thụ điện năng bình quân đầu người đạt khoảng trên 4.000kwh - 4.500kwh, hệ số đàn hồi điện năng/thu nhập giảm xuống mức bình quân khoảng 0,9 cho cả giai đoạn đến năm 2030. Cường độ năng lượng GDP theo sức mua tương đương ở mức khoảng 120 kgOE/1.000 USD.

Thực hiện chương trình tiết kiệm điện trong sản xuất, truyền tải và phân phối; đẩy nhanh tiến độ đầu tư và đưa vào vận hành các dự án nguồn điện và lưới điện truyền tải; thực hiện đúng lộ trình phát triển thị trường điện cạnh tranh; mở rộng lưới điện tới các vùng nông thôn, biên giới, hải đảo, đồng thời bảo đảm an toàn và chống thất thoát điện; khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo và sự tham gia mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài nhà nước; phấn đấu tỷ lệ tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1% - 1,5%/năm.

Thứ tư, xây dựng hệ thống các công trình ứng phó với biến đổi khí hậu đồng bộ, hiện đại, giảm tỷ lệ thiệt hại do thiên tai gây ra.

Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái.

Tăng cường năng lực hệ thống kết cấu hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là đồng bằng sông Cửu Long và chống ngập úng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàn thành xây dựng và nâng cấp các công trình thủy lợi, hồ chứa nước trọng yếu bảo đảm an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân ở vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Bảo đảm an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu liên xã, liên huyện, liên vùng, bảo đảm tính kết nối hệ thống đồng bộ, hiện đại, giảm tỷ lệ thiệt hại do thiên tai gây ra.

Bền vững về môi trường đi đôi với thịnh vượng về kinh tế là bảo đảm phát triển kinh tế có năng suất cao bằng công nghệ tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn để tiết kiệm tài nguyên, sản xuất ra sản phẩm sạch và duy trì môi trường tự nhiên trong lành, có “trời xanh và nước sạch”.

Bền vững về môi trường tự nhiên sẽ là mục tiêu lâu dài gắn kết với toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng trên cơ sở chuyển dịch mạnh sang các ngành, lĩnh vực sử dụng hiệu quả hơn về năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, có hàm lượng tri thức cao.

Quản lý tốt và hiệu quả các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên, giảm thiểu tương tác môi trường, khôi phục tốt môi trường tự nhiên. Khôi phục và phát triển môi trường sinh thái rừng, bảo đảm độ che phủ rừng đạt khoảng trên 60%. Tài nguyên nước được bảo vệ và làm giàu trên cơ sở khôi phục và duy trì, quản trị tốt các lưu vực sông tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững trong dài hạn. Chất lượng nước tại các lưu vực sông đạt tiêu chuẩn châu Âu.

Thiết lập hệ thống cảnh báo sớm có đủ năng lực để phát hiện cùng với bảo đảm đủ nguồn lực cũng như lực lượng đủ năng lực khắc phục thiệt hại từ thiên tai và ứng phó tốt với biến đổi khí hậu...(3).

Thứ năm, phát triển kết cấu hạ tầng thông tin, viễn thông hiện đại, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.

Xây dựng và phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, kết cấu hạ tầng số hiện đại và hệ thống cơ sở dự liệu quốc gia từ Trung ương đến vùng, địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất, bảo đảm kết cấu hạ tầng kỹ thuật an toàn, an ninh thông tin, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số. Phát triển kết cấu hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); in-tơ-nét băng thông rộng phủ 100% các xã.

Ưu tiên phát triển một số ngành mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao,  như công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ điện tử - viễn thông, công nghiệp sản xuất rô-bốt, công nghiệp sản xuất phần mềm, sản phẩm số, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp an toàn thông tin,... Phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, doanh nghiệp số chủ lực để thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số gắn với bảo đảm an toàn, an ninh thông tin và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Tập trung sản xuất các thiết bị phục vụ hệ thống 5G.

Hoàn thiện thể chế để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số. Xây dựng và phát triển Chính phủ số, kinh tế số, các mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ số (công nghiệp số, nông nghiệp số, du lịch số) và xã hội số, văn hóa số, y tế số, giáo dục số,..../.

----------------------

(1) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 203 – 204
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4. tr. 35

(3) Xem: Việt Nam 2035 - Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ, Nxb. Hồng Đức, 2016