Khoa học và công nghệ Việt Nam - Những chặng đường đồng hành cùng dân tộc

CHU NGỌC ANH
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ
17:33, ngày 16-03-2020

TCCS - Trong suốt chặng đường cách mạng Việt Nam, khoa học và công nghệ luôn đồng hành cùng đất nước và dân tộc, đạt được nhiều thành tựu và có đóng góp to lớn cho sự nghiệp kháng chiến cũng như công cuộc đổi mới. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, khoa học và công nghệ đã và đang trở thành một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế đất nước.

Sứ mệnh lịch sử

Hơn sáu mươi năm trước đây, Ủy ban Khoa học Nhà nước - tổ chức tiền thân của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày nay, được thành lập theo Sắc lệnh số 016-SL, ngày 4-3-1959, của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự ra đời của Ủy ban thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước ta về vai trò động lực của khoa học và công nghệ trong hoàn cảnh đất nước còn đang đối mặt với muôn vàn khó khăn, gian khổ của công cuộc kiến thiết miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh trường kỳ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngay từ khi ra đời, Ủy ban Khoa học Nhà nước đã sớm xác định sứ mệnh của mình là phục vụ đắc lực ba mục tiêu quốc gia về sản xuất, dân sinh và quốc phòng. Trong điều kiện của một nền khoa học - kỹ thuật non trẻ hết sức thiếu thốn về trang thiết bị nghiên cứu và các nguồn lực cơ bản, Ủy ban Khoa học Nhà nước cùng ngành khoa học đã hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ cấp bách đặt ra trước mắt, đồng thời tổ chức, gây dựng những nền móng cơ bản về khoa học và kỹ thuật cho tương lai. Đất nước sẽ không bao giờ quên công lao của các nhà khoa học, nhà quản lý mà tên tuổi của họ đã đi vào lịch sử, như Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, Lương Định Của, Bùi Huy Đáp,... và cống hiến to lớn thầm lặng của các cán bộ khoa học những thế hệ đầu tiên.

Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng đang nghiên cứu trên bệnh phẩm gan khô (năm 1962)_Ảnh: Tư liệu

Các cuộc điều tra, khảo sát tài nguyên, khoáng sản ở nhiều miền đất xa xôi của đất nước đã được khởi đầu thực hiện trong thời kỳ này. Nhiều cán bộ kỹ thuật đã được huy động tham gia thiết kế, thi công các công trình lớn, như đại thủy nông Bắc Hưng Hải, khu liên hợp gang thép Thái Nguyên, mỏ A-pa-tít Lào Cai, nhà máy cơ khí Hà Nội; tiếp thu làm chủ kỹ thuật từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em để đưa các nhà máy, xí nghiệp này trở thành những cánh chim đầu đàn của nền công nghiệp non trẻ Việt Nam. Trong nông nghiệp, chúng ta đã có các công trình nghiên cứu ứng dụng giống cây mới và quy trình gieo cấy tiên tiến, bảo đảm lương thực cho hậu phương lớn miền Bắc và chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Các công trình y dược về sốt rét, lây nhiễm, da liễu, ngoại khoa đã phục vụ kịp thời việc chăm sóc sức khỏe nhân dân và lực lượng quân đội trên chiến trường. Hệ thống các công trình nghiên cứu kỹ thuật quân sự chống nhiễu ra đa, cải tiến tên lửa phòng không, rà phá thủy lôi từ tính và bom từ trường là những thành tựu khoa học rất đáng tự hào, góp phần cùng với quân và dân cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh kỹ thuật cao của đối phương, hoàn thành sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Bước sang thời kỳ hòa bình, lực lượng khoa học và công nghệ nước nhà lại cùng với nhân dân cả nước nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế trong hoàn cảnh bị bao vây, cấm vận đầy khó khăn. Từ năm 1980, toàn bộ các tài liệu, tạp chí khoa học, sách tham khảo bằng tiếng Anh không còn được tài trợ và sau khi Liên Xô sụp đổ, số lượng tạp chí khoa học, sách báo, tài liệu tiếng Nga cũng giảm đáng kể. Cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị nghiên cứu và các nguồn lực đều rất thiếu thốn, nghèo nàn. Đây là thời kỳ tiếp tục thử thách ý chí và nhiệt huyết nghiên cứu của các cán bộ khoa học Việt Nam. Bằng trí tuệ, nghị lực và tinh thần tự trọng, tự cường được hun đúc từ những năm tháng chiến tranh, lực lượng khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ.

Chính trong những năm tháng khó khăn này, đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật đã được huy động tham gia thiết kế, thi công các công trình thế kỷ của Việt Nam, như xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình; khai hoang, cải tạo vùng Đồng Tháp Mười; xây dựng đường dây tải điện 500kV Bắc - Nam; tiến hành khai thác dầu khí ở Biển Đông; chọn tạo mới các giống cây trồng năng suất, chất lượng cao, làm tiền đề cho sự phát triển của các ngành công nghiệp và nông nghiệp của đất nước. Từng bước, lực lượng khoa học và công nghệ Việt Nam không ngừng học hỏi để trưởng thành, tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng, xóa bỏ cơ chế bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế.

Đó thực sự là các nỗ lực phi thường trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của lịch sử, là bài học về thực thi sứ mệnh của khoa học và công nghệ trong gánh vác sứ mệnh chung của quốc gia và dân tộc, thực sự truyền cảm hứng cho các thế hệ hôm nay trên con đường phát triển khoa học và công nghệ phục vụ các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thế và lực mới

Thả rotor máy phát tổ máy số 1 của Nhà máy thủy điện Lai Châu, ngày 14-10-2015, tại huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN

Trong hơn 30 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, khoa học và công nghệ tiếp tục có những bước tiến quan trọng về mọi mặt, đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng, an ninh quốc gia.

Theo từng thời kỳ, cơ chế, chính sách quản lý hoạt động khoa học và công nghệ luôn được quan tâm hoàn thiện nhằm giải phóng tiềm năng sáng tạo, tạo môi trường ngày càng thuận lợi và thông thoáng cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới theo hướng cơ bản, toàn diện và đồng bộ, tôn trọng đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ, phù hợp với thực tiễn thị trường, dần tiệm cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.

Dấu ấn đổi mới chính sách rõ nét nhất phải kể đến là sự ra đời của hệ thống các đạo luật chuyên ngành trong lĩnh vực khoa học và công nghệ(1), với nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của doanh nghiệp trong hệ thống sáng tạo quốc gia; từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu; áp dụng nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng trong tuyển chọn nhiệm vụ khoa học và công nghệ; thực hiện cơ chế khoán chi và kiểm soát chi thông thoáng; gắn nhiệm vụ nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn và thị trường; trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức khoa học và công nghệ công lập; phát triển thị trường công nghệ, khuyến khích đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; hình thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh cho khoa học và công nghệ; trọng dụng cán bộ khoa học theo nhóm đối tượng tài năng.

Những bước đột phá về cơ chế, chính sách này là một trong những nguyên nhân chính góp phần quan trọng trong việc nâng cao tiềm lực và trình độ khoa học và công nghệ của đất nước. Nếu như trong thập niên 60 của thế kỷ XX, cả miền Bắc chỉ có 8 viện nghiên cứu, 6 trường đại học thì đến nay cả nước đã có hơn 4 nghìn tổ chức khoa học và công nghệ, 3 khu công nghệ cao quốc gia, 13 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, 8 khu công nghệ thông tin tập trung và gần 67 nghìn cán bộ nghiên cứu. Hạ tầng nghiên cứu trong một số  lĩnh vực trọng điểm, như công nghệ sinh học, hóa dầu, vật liệu, năng lượng, tự động hóa, nano, công nghệ tính toán, y học được tăng cường. Nguồn lực thông tin, nền tảng tri thức Việt số hóa được đầu tư, kết nối và chia sẻ mở trong cộng đồng. Đầu tư từ doanh nghiệp cho khoa học - công nghệ gia tăng mạnh mẽ. Đã hình thành các viện nghiên cứu công nghệ công nghiệp theo mô hình tiên tiến thế giới ở cả khu vực nhà nước và tư nhân, điển hình, như Viện V-KIST, các viện nghiên cứu của VinGroup về dữ liệu lớn, công nghệ cao. Thị trường công nghệ, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo phát triển sôi động, hệ thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng ngày càng hoàn thiện, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, khuyến khích sự ra đời của hàng nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp có tiềm năng tăng trưởng.

Trình độ khoa học và công nghệ của Việt Nam từng bước được nâng cao; số lượng bài báo, công trình khoa học công bố quốc tế và sáng chế của người Việt Nam tuy còn khiêm tốn nhưng đã được gia tăng hằng năm; tốc độ đổi mới công nghệ, năng lực công nghệ của quốc gia và doanh nghiệp được tăng cường; khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong khu vực được rút ngắn đáng kể trong xếp hạng năng lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo toàn cầu và ở một số lĩnh vực khoa học có thế mạnh. Năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam liên tục tăng, năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng thêm 3 bậc, năm 2019 đạt thứ hạng tốt nhất từ trước tới nay, xếp thứ 42 trên 129 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Số lượng công bố quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam tăng trung bình 26% mỗi năm, lĩnh vực toán học và vật lý luôn đứng ở tốp đầu các nước ASEAN.

Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương phát triển đất nước, hoàn thiện pháp luật, tạo tiền đề cho đổi mới tư duy kinh tế, khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, bảo tồn các hệ giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam. Nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu, đồ sộ về tầm vóc tri thức và ảnh hưởng đã được xây dựng, như Bộ Lịch sử Việt Nam  - bộ quốc sử chính thống cung cấp thông tin toàn diện và chuyên sâu về lịch sử quốc gia; Bộ Địa chí quốc gia Việt Nam (Quốc chí) - thư tịch cung cấp thông tin toàn diện và hệ thống về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam; Bách khoa toàn thư Việt Nam - bộ từ điển tra cứu toàn diện về các vấn đề văn hóa, khoa học và kỹ thuật nhằm nâng cao tri thức cho quảng đại quần chúng nhân dân; Dịch thuật Kinh điển phương Đông - bộ sách tinh hoa về các tác phẩm kinh điển phương Đông có ý nghĩa lịch sử và thời đại, mang giá trị dân tộc và nhân văn sâu sắc.

Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã góp phần nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về lúa gạo và một số mặt hàng nông sản, thủy sản chủ lực. Nhân tố khoa học và công nghệ đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Trong công nghiệp và dịch vụ, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam đã có khả năng độc lập thiết kế, thi công các nhà máy thủy điện lớn; chế tạo thiết bị cơ khí thủy công và nâng hạ siêu trường, siêu trọng; giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước và 120m nước; phát triển công nghệ khai thác dầu trong đá móng; khai thác vệ tinh viễn thông và vệ tinh viễn thám; làm chủ công nghệ đóng tàu, xây dựng công trình ngầm, nhà cao tầng, cầu dây văng, đường cao tốc đạt tiêu chuẩn quốc tế; thành công trong ghép đa tạng và sản xuất vắc xin. Việc tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ ở địa phương cũng góp phần phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, phát huy lợi thế và tiềm năng vùng, miền, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện hạ tầng an sinh và điều kiện sống của người dân các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Những thành tựu đó đã đóng góp thiết thực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đổi mới và hoàn thiện thể chế, thúc đẩy năng suất, chất lượng và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, giữ vững quốc phòng và an ninh quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, tạo nên thế và lực mới cho đất nước.

Hướng tới tương lai

Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện cuộc gọi video đầu tiên sử dụng đường truyền kết nối 5G do Viettel tự nghiên cứu và sản xuất_Ảnh: TTXVN

Có thể nói, trong điều kiện một nước đang phát triển nguồn lực có hạn, Việt Nam đã có những tiến bộ rất đáng khích lệ, từng bước rút ngắn cách biệt về năng lực khoa học và đổi mới sáng tạo so với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, các thách thức chúng ta phải đối mặt là rất lớn. Năng suất lao động của Việt Nam tuy có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, nhưng vẫn còn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực. Năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Tinh thần khoa học, văn hóa đổi mới sáng tạo chưa thấm sâu vào tư duy, nhận thức cộng đồng xã hội. Khoa học và công nghệ Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế - xã hội.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra trên toàn cầu với các cơ hội và thách thức đan xen, đòi hỏi một nước đi sau như Việt Nam cần nhanh chóng đổi mới tư duy, hành động kịp thời, một mặt, kiên trì các giải pháp tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong dài hạn; mặt khác, bằng mọi giá tìm cách đi riêng để phát triển bứt phá. Để đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, trong thời gian tới, cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong thực tiễn, chuyển hóa các kết quả khoa học và công nghệ thành sản phẩm, dịch vụ mới, từ đó tạo ra giá trị gia tăng và của cải, vật chất cho xã hội. Do đó, cần tiếp tục kiên trì đổi mới hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia để phát triển mạnh lực lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng nhanh.

Thứ hai, kích cầu công nghệ và nhu cầu đổi mới sáng tạo từ khu vực doanh nghiệp đòi hỏi thực hiện đồng bộ các giải pháp về kinh tế, thương mại, đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh. Từ góc độ quản lý khoa học và công nghệ, cần tăng cường năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp thông qua tiếp tục khuyến khích doanh nghiệp đầu tư lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ, thành lập viện nghiên cứu, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; mở rộng hình thức tài trợ, cho vay, bảo lãnh vốn vay từ các quỹ nhà nước đối với các dự án đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Tăng cường hợp tác công - tư trong triển khai các dự án công nghệ quy mô lớn và hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, trước hết với các tập đoàn công nghệ công nghiệp lớn trong nước. Về lâu dài, cần tính đến việc từng bước chuyển dịch hoạt động nghiên cứu ứng dụng từ các viện nghiên cứu công lập về khu vực doanh nghiệp như thông lệ quốc tế.

Thứ ba, trường đại học, viện nghiên cứu phải trở thành chủ thể mạnh tạo ra tri thức. Đối với các trường đại học, nghiên cứu khoa học phải là nhiệm vụ bắt buộc. Quan tâm đầu tư kinh phí và kết cấu hạ tầng nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm, nhóm nghiên cứu mạnh, trung tâm xuất sắc trong các trường đại học; hình thành các đại học nghiên cứu mạnh ở Việt Nam. Đối với các viện nghiên cứu, thực hiện trao quyền tự chủ tối đa gắn với trách nhiệm giải trình, chịu sự đánh giá độc lập về kết quả hoạt động và công khai kết quả đánh giá. Thúc đẩy gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với khu vực công nghiệp và doanh nghiệp để đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới hoạt động quản lý khoa học và công nghệ theo hướng dỡ bỏ các rào cản, giải phóng tối đa tiềm năng sáng tạo, quyền tự do học thuật đi đôi với đánh giá công khai, minh bạch kết quả hoạt động nghiên cứu. Xác định trúng và đúng tầm nhiệm vụ khoa học và công nghệ, xuất phát từ thực tiễn và giải quyết được các yêu cầu bức thiết của thực tiễn phát triển đất nước, ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp. Gây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học mạnh, kết hợp đồng thời biện pháp động viên, khuyến khích và đặt yêu cầu trở lại đối với nhà khoa học; đào tạo, trọng dụng người tài kết hợp với đòi hỏi về tính liêm chính và đạo đức trong nghiên cứu. Bảo đảm phương tiện và môi trường làm việc thuận lợi cho cán bộ khoa học. Đầu tư có hiệu quả cho hạ tầng khoa học và công nghệ, trang thiết bị nghiên cứu, phòng thí nghiệm, nguồn lực thông tin và tài chính; tạo lập môi trường học thuật tiên tiến và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo lành mạnh.

Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế, thúc đẩy hợp tác nghiên cứu chung để tranh thủ nguồn lực và tri thức của các quốc gia tiên tiến, đồng thời từng bước nâng tầm năng lực và trình độ nghiên cứu trong nước để có thể tham gia hợp tác đối tác bình đẳng và cùng có lợi trong dài hạn. Hỗ trợ mạnh hoạt động giao lưu khoa học, trao đổi học thuật tầm khu vực và quốc tế. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới đại diện khoa học và công nghệ Việt Nam ở nước ngoài, nhất là tại các địa bàn trọng điểm. Thu hút, khai thác thế mạnh của đội ngũ các nhà khoa học tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài.

Bài học lớn nhất các thế hệ đi trước để lại cho chúng ta ngày nay là bài học về giấc mơ lớn trong khoa học, khát vọng phụng sự đất nước bằng khoa học và nỗ lực phi thường để bằng mọi giá biến giấc mơ, khát vọng đó trở thành hiện thực. Đó là giá trị tinh thần quý báu rất cần được chúng ta kế thừa, tiếp tục nuôi dưỡng và phát huy trong thời đại mới. Niềm vinh dự và tự hào về truyền thống lịch sử 60 năm sẽ tiếp thêm động lực và niềm tin cho lực lượng khoa học và công nghệ nước nhà, quyết tâm đoàn kết và nỗ lực sáng tạo để nhân lên gấp bội tiềm năng và nguồn lực trí tuệ Việt Nam, đưa khoa học và công nghệ phát triển lên một tầm cao mới, đóng góp ngày càng to lớn và thiết thực hơn cho sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững đất nước, xứng đáng với sự tin cậy và kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Nhìn lại chặng đường lịch sử phát triển của ngành khoa học và công nghệ, chúng ta trân trọng và biết ơn sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, các thế hệ tiền bối của Ủy ban Khoa học nhà nước, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, các thế hệ cán bộ khoa học Việt Nam trong nước và ở nước ngoài, trong từng thời kỳ lịch sử, đã chung tay viết nên những trang vàng truyền thống của khoa học và công nghệ Việt Nam, bằng cả máu xương và những hy sinh thầm lặng trên con đường sáng tạo, bằng trí tuệ và tấm lòng tận trung với đất nước, để đưa nền khoa học và công nghệ nước nhà vượt qua muôn vàn chông gai, thử thách trong thời chiến và vươn lên phát triển mạnh mẽ trong thời đại hòa bình và dựng xây đất nước./.

------------------------------
(1) Hệ thống pháp luật về khoa học và công nghệ được tạo lập và hoàn thiện gồm 8 đạo luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn để điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ: Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000, được thay thế bởi Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013; Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019; Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006, thay thế năm 2017; Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007; Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008; Luật Công nghệ cao năm 2008; Luật Đo lường năm 2011. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành khá đồng bộ các chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án quốc gia về phát triển khoa học và công nghệ trong trung hạn và dài hạn