Tỉnh An Giang chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
TCCS - Với phương châm lấy người dân làm trung tâm, tỉnh An Giang hướng tới mục tiêu mọi đồng bào đều được thụ hưởng thành quả phát triển của tỉnh, không để ai bị bỏ lại phía sau. Trên cơ sở đó, tỉnh đã ban hành và triển khai nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, chênh lệch vùng miền, nâng cao chất lượng đời sống của người dân, góp phần xây dựng tỉnh An Giang phát triển bền vững, hài hòa, toàn diện.
Chăm lo phát triển đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Sau hợp nhất, tỉnh An Giang sẽ trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh có quy mô lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long, với diện tích tự nhiên 9.888km², gồm 102 đơn vị hành chính cơ sở, trong đó có 65 xã, phường và 46 ấp, khu phố, khóm thuộc vùng dân tộc thiểu số (DTTS), là nơi sinh sống lâu đời của 29 thành phần dân tộc anh em. Trong số đó, 3 dân tộc thiểu số chính là Khmer, Hoa và Chăm, với tổng dân số khoảng 472.132 người, chiếm 9,53% tổng dân số toàn tỉnh. Đồng bào Khmer chiếm 8%, đồng bào Hoa chiếm gần 1%, đồng bào Chăm chiếm 0,43%, cùng các dân tộc thiểu số khác chiếm 1,75%.
Vùng đồng bào DTTS của tỉnh An Giang không chỉ là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa, tín ngưỡng đặc sắc, mà còn là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển bền vững của tỉnh. Đồng bào Khmer chủ yếu theo Phật giáo Nam tông, các ngôi chùa không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo mà còn là trung tâm văn hóa tinh thần, giữ vai trò đoàn kết cộng đồng. Một bộ phận đồng bào Khmer sinh sống ở vùng biên giới, chủ yếu lao động nông nghiệp, dịch vụ, làm thuê theo vụ mùa, với công cụ lao động giản đơn. Đồng bào Hoa tập trung sinh sống tại các đô thị, phát triển mạnh trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, cùng các hoạt động làm vườn, đánh bắt thủy sản. Đồng bào Chăm theo Hồi giáo (Islam) sinh sống bằng buôn bán nhỏ, chăn nuôi, dệt vải, thêu đan, đánh bắt thủy sản ven sông và một số ít hộ làm nông nghiệp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Các dân tộc thiểu số khác chủ yếu là cán bộ, công chức, bộ đội từ miền Bắc vào công tác, có đời sống tương đối ổn định.
Đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh An Giang từ lâu đã xây dựng truyền thống đoàn kết, cần cù lao động, gắn bó cộng đồng và yêu nước. Với niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào DTTS luôn đồng hành cùng các cấp ủy, chính quyền, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự đồng thuận, đoàn kết và nỗ lực vươn lên của đồng bào DTTS là minh chứng sinh động cho mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và các dân tộc. Đây chính là nền tảng quan trọng để tỉnh An Giang tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách dân tộc, phát huy tiềm năng, tạo đà vững chắc cho sự phát triển bền vững và toàn diện trong giai đoạn mới.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cấp ủy, chính quyền tỉnh An Giang đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai đồng bộ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Nhờ sự quan tâm lãnh đạo sát sao, đồng bộ của các cấp, sự chung sức đồng lòng của toàn hệ thống chính trị và nỗ lực vượt khó của đồng bào DTTS, vùng dân tộc thiểu số tỉnh An Giang đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của tỉnh.
Nhờ khai thác hiệu quả các nguồn lực từ Trung ương, từ tỉnh và các nguồn lực hợp pháp khác, tỉnh An Giang đã triển khai đồng bộ các chương trình, dự án và chính sách hỗ trợ đồng bào DTTS, tạo nền tảng cho kinh tế - xã hội vùng dân tộc từng bước phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Hiện nay, 100% số xã vùng DTTS có đường ô tô đến trung tâm; trên 95% số ấp đặc biệt khó khăn có đường giao thông; 100% số xã đặc biệt khó khăn có điện lưới quốc gia đến trung tâm, gần 99% số hộ dân được sử dụng điện; 100% số xã có điểm bưu điện văn hóa; 100% số xã đã phủ sóng phát thanh - truyền hình; tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 89,3%; 98,6% số hộ được tiếp cận điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác.
Hạ tầng viễn thông phát triển đồng bộ, đáp ứng nhu cầu thông tin, kết nối của người dân, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Các kết quả này đã củng cố lòng tin của đồng bào vào đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, tạo sự đồng thuận cao và khích lệ đồng bào an tâm lao động, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống.
Công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được tỉnh An Giang đặc biệt quan tâm. Việc đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa - thể thao cơ sở, nâng cấp hạ tầng phục vụ đời sống văn hóa tinh thần tại vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo đã tạo điều kiện để đồng bào DTTS được tham gia, sinh hoạt văn hóa lành mạnh, giữ gìn truyền thống dân tộc.
Các lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer như Chôl Chnăm Thmây, Sene Đôn Ta, Ok Om Bok được duy trì, tổ chức trang trọng; Tết Roya Haji của đồng bào Chăm, Tết Nguyên tiêu và lễ Cầu An của người Hoa được hỗ trợ, nâng cấp thành các hoạt động văn hóa - thể thao - du lịch cấp tỉnh, góp phần tạo điểm nhấn văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời thúc đẩy phát triển du lịch, dịch vụ địa phương.
Tỉnh đã tổ chức hỗ trợ, duy trì và nhân rộng các mô hình đội văn nghệ quần chúng Khmer tại cơ sở, góp phần bảo tồn các loại hình nghệ thuật truyền thống. Toàn tỉnh hiện có 142 chùa Phật giáo Nam tông Khmer, trong đó 07 cơ sở được công nhận di tích, cùng nhiều chùa và miếu là cơ sở tín ngưỡng của đồng bào Hoa. Các Hội đoàn kết sư sãi yêu nước và Hội Tương tế người Hoa hoạt động sôi nổi, tạo môi trường sinh hoạt văn hóa và tín ngưỡng lành mạnh. Năm 2025, tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 02/2025/NQ-HĐND về hỗ trợ đóng mới ghe Ngo truyền thống cho đồng bào Khmer, hỗ trợ 10 điểm chùa với tổng kinh phí 3 tỷ đồng, thể hiện sự quan tâm của Đảng bộ và Chính quyền địa phương đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
tỉnh An Giang đã tập trung phát triển giáo dục vùng dân tộc, ưu tiên đầu tư các trường phổ thông dân tộc nội trú và trung cấp nghề dân tộc nội trú, nâng cao chất lượng dạy - học, đáp ứng nhu cầu học tập và phát triển nguồn nhân lực cho vùng DTTS. Chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất được thực hiện đầy đủ.
Hiện toàn tỉnh có 9 trường phổ thông dân tộc nội trú và 01 trường trung cấp nghề dân tộc nội trú đã được nâng cấp, đi vào hoạt động hiệu quả. Tỷ lệ huy động học sinh DTTS đến trường hằng năm đạt trên 98%, đồng thời tỉnh đã tổ chức các lớp dạy tiếng Khmer, chữ Hoa tại 130 điểm chùa, với 451 lớp học, 11.987 học sinh theo học, kinh phí hỗ trợ 3,2 tỷ đồng. Đây là minh chứng rõ nét cho quyết tâm giữ gìn văn hóa truyền thống, đồng thời nâng cao trình độ dân trí vùng DTTS.
Công tác chăm sóc sức khỏe đồng bào DTTS được tỉnh An Giang chú trọng thực hiện. 100% số xã, phường, đặc khu vùng đồng bào DTTS có trạm y tế đạt chuẩn, bảo đảm đội ngũ y, bác sĩ luân phiên trực; tuyến tỉnh triển khai hoạt động 6 bệnh viện cấp tỉnh, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của Nhân dân.
Đồng bào DTTS được quan tâm tham gia đầy đủ các chương trình y tế quốc gia và bảo hiểm y tế, tỷ lệ tham gia đạt gần 98%. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em được thực hiện thường xuyên, góp phần giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Công tác vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh được tăng cường, bảo đảm đời sống an toàn, lành mạnh cho đồng bào.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác dân tộc ở tỉnh An Giang vẫn còn một số hạn chế. Kinh tế tăng trưởng chưa toàn diện, tiềm năng nông nghiệp chưa được khai thác tối đa, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn chậm; một số mô hình kinh tế hiệu quả nhưng thiếu bền vững. Đời sống đồng bào dân tộc, nhất là đồng bào Khmer, vẫn còn khó khăn; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ, xử lý môi trường và văn hóa - xã hội ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Trình độ dân trí hạn chế, một số loại hình văn hóa truyền thống bị mai một; hệ thống chính trị cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số còn bất cập. An ninh chính trị và trật tự xã hội tại một số khu vực vẫn diễn biến phức tạp.
Một số bài học kinh nghiệm
Từ những kết quả đạt được trong thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc thời gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
Một là, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội về công tác dân tộc, kịp thời cụ thể hóa bằng chương trình, kế hoạch sát hợp với tình hình thực tế tại địa phương.
Hai là, quan tâm nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, trong vùng đồng bào DTTS. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp là người DTTS. Quan tâm bố trí cán bộ, công chức làm công tác dân tộc ở địa bàn có đông đồng bào dân tộc phải biết tiếng dân tộc, am hiểu tập quán, sinh hoạt văn hóa của đồng bào, nắm tình hình và thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS.
Ba là, tập trung triển khai đồng bộ và huy động các nguồn lực đầu tư để lồng ghép thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc trong vùng đồng bào DTTS. Trong đó, tập trung thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia. Ưu tiên đầu tư các lĩnh vực phát triển hạ tầng cơ sở, thu hút đầu tư vào vùng dân tộc; hỗ trợ đồng bào, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh, nâng cao thu nhập để thoát nghèo bền vững.
Bốn là, tuyên truyền, vận động, giáo dục, nâng cao ý chí tự lực, tự cường, phấn đấu thoát nghèo, làm giàu chính đáng của bà con. Phổ biến nhân rộng mô hình tiêu biểu, gương điển hình tiên tiến, người có uy tín trong đồng bào DTTS.
Tiếp tục phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong kỷ nguyên mới
Thứ nhất, tiếp tục đầu tư chính sách phát triển văn hóa - xã hội ở vùng có đông đồng bào DTTS, thực hiện tốt các chính sách dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số; huy động trẻ em đến trường; thực hiện tốt chính sách cử tuyển; nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc; tăng cường xây dựng, sửa chữa trường phổ thông dân tộc nội trú đạt chuẩn quốc gia; tiếp tục tuyển sinh và thực hiện tốt chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên dân tộc.
Thứ hai, bảo đảm tiếp cận bình đẳng về giáo dục, y tế, văn hóa; tạo nhiều việc làm, sinh kế cho người dân; các mục tiêu phải thiết thực, cụ thể, khả thi và dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, giám sát, đánh giá và với tinh thần "không để ai bị bỏ lại phía sau" trong quá trình phát triển.
Thứ ba, giải quyết kịp thời các yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của tôn giáo và hoạt động tín ngưỡng của đồng bào DTTS phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức và năng lực về chuyển đổi số cho người dân; hỗ trợ đồng bào DTTS được tiếp cận thông tin về khoa học và công nghệ; vận động con em tích cực học tập nâng cao trình độ dân trí; tiếp cận thông tin, mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống và sản xuất; sử dụng các thiết bị hiện đại ứng dụng công nghệ số, thương mại điện tử, dịch vụ hành chính công và tham gia thực hiện chuyển đổi số trong từng lĩnh vực của đời sống.
Thứ năm, tăng cường an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vùng đồng bào DTTS; tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đồng bào về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, ý thức bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển. Nắm chắc mọi diễn biến tình hình, kịp thời phát hiện ngăn chặn và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các vụ khiếu kiện có liên quan đến đồng bào dân tộc; đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, ý thức chấp hành pháp luật./.
Tỉnh An Giang phấn đấu trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh của quốc gia vào năm 2030  (04/10/2025)
Kinh nghiệm công tác vận động ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở tỉnh Đắk Nông  (25/05/2025)
Bình Liêu quyết tâm thực hiệu quả chính sách dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng huyện ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại  (27/11/2024)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm