Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
TCCS - Già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng, trở thành một trong những thách thức lớn đối với hệ thống y tế và an sinh xã hội của Việt Nam, nhưng cũng mở ra dư địa phát triển gắn với bảo vệ, chăm sóc, hỗ trợ người cao tuổi (kinh tế bạc). Quán triệt Nghị quyết số 72-NQ/TW, ngày 9-9-2025, của Bộ Chính trị “Về tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” phát triển kinh tế bạc trong y tế là yêu cầu khách quan để thích ứng với xu hướng già hóa dân số, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người cao tuổi, đồng thời là định hướng chiến lược nhằm tận dụng nguồn lực của nhóm dân số cao tuổi, thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Thế kỷ XXI đang chứng kiến biến đổi nhân khẩu học sâu sắc trong lịch sử nhân loại - hiện tượng già hóa dân số. Đây không còn là hiện tượng riêng của các quốc gia phát triển, mà đã trở thành xu thế toàn cầu, có tính chất phổ quát và không thể đảo ngược, tác động sâu rộng đến cấu trúc kinh tế - xã hội của mọi quốc gia.
Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm, coi người cao tuổi là vốn quý của dân tộc, là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác chăm sóc, phụng dưỡng và phát huy vai trò người cao tuổi không chỉ là trách nhiệm xã hội, chính sách an sinh, mà còn là sự kế thừa và phát huy truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tinh thần kính lão, trọng thọ của dân tộc Việt Nam. Quan điểm, chủ trương và chính sách đối với người cao tuổi đồng thời thể hiện rõ bản chất nhân văn, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Trong bối cảnh chung, việc chủ động thích ứng và biến thách thức từ già hóa dân số thành cơ hội phát triển là yêu cầu cấp thiết. Thay vì nhìn nhận già hóa dân số như một gánh nặng đối với hệ thống an sinh và y tế, thế giới đang chuyển sang một cách tiếp cận tích cực hơn - phát triển kinh tế bạc. Đây được xem là mô hình phát triển mới, một cấu phần quan trọng của nền kinh tế quốc dân, nhằm khai thác tiềm năng to lớn về kinh tế - xã hội của nhóm dân số cao tuổi, qua đó tạo động lực cho tăng trưởng và tiến bộ xã hội.
Trong hệ sinh thái đa tầng của kinh tế bạc, ngành y tế có sứ mệnh đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và chuyên sâu của nhóm dân số này, đồng thời phải chủ động đổi mới mô hình hoạt động, ứng dụng khoa học - công nghệ, phát triển loại hình dịch vụ chăm sóc phù hợp. Đây không chỉ là giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống của người cao tuổi, mà còn góp phần quan trọng phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy tăng trưởng trong nền kinh tế bạc - một trụ cột mới của phát triển bền vững đất nước.
Phát triển kinh tế bạc trong lĩnh vực y tế
Kinh tế bạc đã được nhiều tổ chức quốc tế nghiên cứu, phân tích và tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, song đều thống nhất ở điểm chung: nhấn mạnh cơ hội kinh tế nảy sinh từ quá trình già hóa dân số. Báo cáo của Ủy ban châu Âu năm 2015 tiếp cận kinh tế bạc dưới góc độ “các cơ hội kinh tế phát sinh từ chi tiêu công và chi tiêu của người tiêu dùng liên quan đến già hóa dân số và các nhu cầu đặc thù của nhóm dân số trên 50 tuổi”. Cách tiếp cận này tập trung vào vai trò của người cao tuổi với tư cách là người tiêu dùng, mở ra một thị trường rộng lớn cho sản phẩm và dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của họ.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) tiếp cận vấn đề theo hướng mở hơn, nhấn mạnh vai trò hai chiều của người cao tuổi trong nền kinh tế. Theo đó, kinh tế bạc không chỉ bao gồm hoạt động kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi, mà còn bao gồm cả những đóng góp về kinh tế, tri thức và xã hội của chính họ. Người cao tuổi không chỉ là người tiêu dùng, mà còn là lực lượng lao động giàu kinh nghiệm, là người cố vấn, người tình nguyện, người chăm sóc, tiếp tục tạo ra giá trị cho cộng đồng. Cách tiếp cận này đề cao việc khai thác “cổ tức bạc” - nguồn lực quý giá của người cao tuổi - như một động lực phát triển.
Bản chất của kinh tế bạc không phải là hình thành một ngành kinh tế độc lập, mà là một cách tiếp cận tổng thể, liên ngành, hướng tới việc tích hợp yếu tố già hóa vào mọi lĩnh vực phát triển. Trong đó, người cao tuổi không chỉ là đối tượng thụ hưởng phúc lợi, mà là chủ thể tích cực của quá trình phát triển. Ngày nay, người cao tuổi có sức khỏe tốt hơn, tuổi thọ dài hơn, trình độ học vấn và tích lũy tài chính cao hơn, trở thành nhóm tiêu dùng năng động và là lực lượng lao động tiềm năng của xã hội. Trên phạm vi toàn cầu, quy mô thị trường kinh tế bạc được ước tính đạt hàng nghìn tỷ USD và đang tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng.
Tiếp cận theo hướng này đòi hỏi sự đổi mới trong tư duy hoạch định chính sách, đặc biệt trong lĩnh vực y tế. Thay vì chỉ tập trung vào kiểm soát chi phí y tế ngày càng tăng cho người cao tuổi, cần chuyển sang tư duy “tạo dựng giá trị”. Câu hỏi đặt ra không chỉ là “Làm thế nào để chi trả cho việc chăm sóc người cao tuổi?”, mà quan trọng hơn là “Làm thế nào để xây dựng một hệ sinh thái sản phẩm và dịch vụ y tế bền vững, vừa nâng cao chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế?”. Điều này đòi hỏi ngành y tế đóng vai trò trung tâm trong việc phối hợp với bộ, ngành, địa phương và khu vực tư nhân nhằm hình thành và phát triển một lĩnh vực tăng trưởng mới - kinh tế bạc trong y tế, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững đất nước.
Y tế và chăm sóc sức khỏe liên quan đến y tế là cấu phần cốt lõi, chiếm tỷ trọng lớn nhất và giữ vai trò động lực trung tâm trong hệ sinh thái kinh tế bạc. Hệ sinh thái này bao gồm một chuỗi giá trị rộng lớn, đa tầng, có thể phân thành các nhóm chính sau: i- Y tế dự phòng và nâng cao sức khỏe: Là lĩnh vực tiên phong, bao gồm dịch vụ sàng lọc, tầm soát bệnh sớm, tư vấn dinh dưỡng chuyên biệt, tiêm chủng, chương trình rèn luyện thể chất và trí tuệ, quản lý sức khỏe chủ động, hướng tới mục tiêu “lão hóa khỏe mạnh”; ii- Khám, chữa bệnh: Tập trung phát triển chuyên sâu chuyên ngành lão khoa, mô hình quản lý bệnh không lây nhiễm hiệu quả, cùng lĩnh vực phục hồi chức năng sau tai biến, phẫu thuật hoặc bệnh lý mạn tính; iii- Chăm sóc dài hạn: Là thị trường tiềm năng lớn, nhưng còn sơ khai ở Việt Nam, bao gồm mô hình linh hoạt, như dịch vụ chăm sóc tại nhà, trung tâm chăm sóc ban ngày, viện dưỡng lão chuyên nghiệp và mô hình nhà ở tích hợp dịch vụ chăm sóc; iv- Dược phẩm và dinh dưỡng y học: Gắn với thị trường thuốc, thực phẩm chức năng, vitamin và sản phẩm dinh dưỡng y học được nghiên cứu, phát triển chuyên biệt dành cho người cao tuổi; v- Thiết bị y tế và công nghệ hỗ trợ: Là lĩnh vực giao thoa giữa y tế và công nghệ cao, bao gồm thiết bị theo dõi sức khỏe cá nhân, hệ thống nhà thông minh an toàn, rô-bốt hỗ trợ và nền tảng y tế từ xa, giúp kết nối thuận tiện giữa người bệnh và bác sĩ.
Phát triển kinh tế bạc trong lĩnh vực y tế là yêu cầu khách quan, xuất phát từ đòi hỏi cấp bách của thực tiễn:
Một là, quán triệt và thực hiện nghị quyết của Đảng về thích ứng với già hóa dân số và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Việc phát triển kinh tế bạc trong y tế là giải pháp cụ thể để triển khai chủ trương lớn của Đảng, được thể hiện xuyên suốt trong các nghị quyết. Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, xác định rõ định hướng “thích ứng với già hóa dân số”. Nghị quyết số 72-NQ/TW, ngày 9-9-2025, của Bộ Chính trị “Về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân” tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu “tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân”(1), trong đó chú trọng chính sách dành cho người cao tuổi. Nghị quyết đặt ra mục tiêu đến năm 2045, tuổi thọ trung bình đạt trên 80 tuổi, số năm sống khỏe mạnh tăng trên 71 năm; đồng thời, đề ra giải pháp trọng tâm, như khuyến khích đầu tư theo hình thức đối tác công - tư phát triển cơ sở vật chất y tế, nhất là trung tâm chăm sóc người cao tuổi; củng cố hệ thống tài chính, bảo hiểm y tế hướng tới bao phủ toàn dân vào năm 2030; mở rộng chi trả cho phòng bệnh và chẩn đoán sớm; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ; thúc đẩy tự chủ sản xuất dược phẩm, thiết bị y tế và tăng cường hợp tác quốc tế.
Hai là, giải quyết bài toán an sinh xã hội một cách bền vững.
Phát triển kinh tế bạc trong y tế là con đường nâng cao chất lượng sống của người cao tuổi, hiện thực hóa mục tiêu “lão hóa khỏe mạnh, năng động” do Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khởi xướng. Một hệ thống dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp, đồng bộ sẽ giúp giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội, đặc biệt là cho phụ nữ - nhóm đang đảm nhiệm phần lớn vai trò chăm sóc trong hộ gia đình.
Ba là, tạo động lực tăng trưởng kinh tế mới.
Kinh tế bạc trong y tế mở ra một thị trường sản phẩm - dịch vụ giàu tiềm năng, thu hút đầu tư tư nhân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ cao. Quan trọng hơn, lĩnh vực này sẽ tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, mở rộng nền kinh tế dịch vụ và tăng cường tính bền vững của tăng trưởng quốc gia.
Như vậy, phát triển kinh tế bạc trong lĩnh vực y tế không chỉ là yêu cầu của thực tiễn già hóa dân số, mà còn là giải pháp chiến lược để cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần nâng cao chất lượng dân số, phát triển con người Việt Nam và thúc đẩy tăng trưởng bền vững đất nước.
Già hóa dân số và thách thức đặt ra đối với lĩnh vực y tế của Việt Nam
Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học có tính bước ngoặt, với hai đặc điểm nổi bật: tốc độ già hóa nhanh và sự thay đổi sâu sắc trong quy mô, cơ cấu dân số cao tuổi.
Thứ nhất, tốc độ già hóa dân số nhanh.
Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) và Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam thuộc nhóm quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới(2). Trong khi Pháp phải mất 115 năm và Thụy Điển mất 85 năm để tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14%, thì Việt Nam chỉ mất khoảng 25 năm để hoàn tất quá trình này - tương đương tốc độ của Nhật Bản và Thái Lan. Tốc độ già hóa nhanh khiến nước ta không có nhiều thời gian để chuẩn bị về chính sách, hệ thống an sinh xã hội và dịch vụ hỗ trợ thiết yếu cho người cao tuổi.
Thứ hai, quy mô và cơ cấu dân số cao tuổi thay đổi nhanh chóng.
Theo số liệu năm 2024, cả nước có khoảng 14,2 triệu người từ 60 tuổi trở lên, chiếm 14% tổng dân số. Trong giai đoạn 2009 - 2019, tổng dân số tăng trung bình 1,14%/năm, trong khi dân số cao tuổi tăng tới 4,35%/năm(3). Đáng chú ý, nhóm người từ 80 tuổi trở lên tăng nhanh và có tỷ lệ nữ cao hơn nhiều so với nam, kéo theo nhu cầu chăm sóc sức khỏe đặc thù và phức tạp hơn. Một thực tế đáng quan ngại là tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2024 đạt 74,7 tuổi, nhưng số năm sống khỏe mạnh chỉ khoảng 65,4 năm(4).
Quá trình già hóa dân số nhanh đang đặt ra nhiều thách thức đối với ngành y tế Việt Nam.
Một là, gia tăng gánh nặng bệnh tật kép.
Người cao tuổi Việt Nam có thể cùng lúc đối mặt với bệnh lây nhiễm và bệnh không lây nhiễm, trong đó có tình trạng “đa bệnh lý” - một người mắc đồng thời nhiều bệnh mạn tính, như tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường, ung thư, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, sa sút trí tuệ,... khiến việc chẩn đoán và điều trị trở nên phức tạp, tốn kém.
Hai là, hệ thống cung ứng dịch vụ y tế chưa kịp thích ứng.
Mô hình y tế hiện nay vẫn thiên về điều trị tại bệnh viện, trong khi mạng lưới y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe ban đầu và phục hồi chức năng chưa được đầu tư tương xứng. Điều này dẫn đến tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến trên. Hệ thống chăm sóc dài hạn chuyên nghiệp hầu như chưa hình thành; gánh nặng chăm sóc người cao tuổi vẫn chủ yếu đặt lên vai gia đình.
Ba là, áp lực tài chính dành cho y tế ngày càng lớn.
Chi phí y tế bình quân cho người cao tuổi cao gấp khoảng 5 lần so với nhóm dân số khác. Sự gia tăng nhanh của nhóm dân số này đang tạo áp lực lớn lên ngân sách nhà nước, đồng thời đe dọa tính bền vững của Quỹ bảo hiểm y tế.
Bốn là, thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực và cơ sở chuyên ngành lão khoa.
Hiện nay, cả nước có rất ít bác sĩ, điều dưỡng viên và nhân viên y tế được đào tạo bài bản về lão khoa. Hệ thống bệnh viện, khoa lão và cơ sở khám, chữa bệnh chuyên biệt cho người cao tuổi chưa được hoàn thiện, dẫn đến hạn chế trong năng lực cung ứng dịch vụ y tế chất lượng cao cho nhóm dân số này.
Thách thức trên cho thấy, nếu không có giải pháp đồng bộ, toàn diện và kịp thời thì quá trình già hóa dân số nhanh sẽ trở thành áp lực lớn đối với ngành y tế và toàn bộ hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam trong những thập niên tới.
Một số giải pháp trọng tâm cần triển khai trong thời gian tới
Một là, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho phát triển kinh tế bạc trong lĩnh vực y tế. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Người cao tuổi và văn bản pháp luật liên quan nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho phát triển kinh tế bạc đồng bộ với quy định chăm sóc, bảo vệ sức khỏe trong lĩnh vực y tế. Trọng tâm là bổ sung quy định cụ thể về dịch vụ chăm sóc dài hạn; cơ chế hợp tác công - tư trong lĩnh vực dưỡng lão; tiêu chuẩn cấp phép, kiểm định, quản lý chất lượng đối với loại hình dịch vụ chăm sóc mới, bảo đảm phù hợp với xu thế và nhu cầu thực tiễn.
Hai là, phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ y tế theo hướng tích hợp, liên tục, lấy người dân làm trung tâm. Coi y tế cơ sở là nền tảng của hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Triển khai mô hình chăm sóc sức khỏe ban đầu tích hợp cho người cao tuổi tại 100% trạm y tế xã, phường, trong đó y tế cơ sở đảm nhiệm chức năng sàng lọc, lập hồ sơ quản lý sức khỏe, quản lý bệnh không lây nhiễm, phục hồi chức năng và điều phối dịch vụ chăm sóc tại cộng đồng. Phát triển mạng lưới chăm sóc dài hạn đa dạng, đồng bộ; triển khai hiệu quả mục tiêu trong Chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030 theo Quyết định số 1579/QĐ-TTg, ngày 13-10-2020, của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chương trình Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030. Có cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích khu vực tư nhân và tổ chức xã hội tham gia đầu tư vào lĩnh vực này thông qua ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng. Phát triển mô hình trung tâm chăm sóc ban ngày, dịch vụ chăm sóc tại nhà chuyên nghiệp, viện dưỡng lão theo chuẩn quốc tế và nhà ở thân thiện, an toàn cho người cao tuổi.
Ba là, đổi mới cơ chế tài chính y tế cho người cao tuổi, bảo đảm bền vững và công bằng. Trước hết, nghiên cứu xây dựng bảo hiểm chăm sóc dài hạn - một giải pháp mang tính chiến lược và lâu dài. Có thể thí điểm mô hình này tại một số địa phương có điều kiện, với cơ chế tài chính rõ ràng về nguồn đóng góp (ngân sách nhà nước, người lao động, người sử dụng lao động), đối tượng thụ hưởng, phạm vi quyền lợi và phương thức chi trả phù hợp, tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Bên cạnh đó, cần mở rộng phạm vi chi trả của Quỹ Bảo hiểm y tế cho dịch vụ chăm sóc dài hạn tại nhà, phục hồi chức năng và chăm sóc giảm nhẹ tại cộng đồng. Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để phát triển bảo hiểm thương mại chăm sóc sức khỏe trọn đời, khuyến khích hợp tác công - tư trong đầu tư, xây dựng và vận hành hạ tầng y tế lão khoa, viện dưỡng lão hiện đại.
Bốn là, phát triển mạng lưới cơ sở khám, chữa bệnh và nguồn nhân lực chuyên sâu về lão khoa. Tập trung nguồn lực củng cố và phát triển hệ thống khám, chữa bệnh lão khoa đồng bộ, hiệu quả ở cả Trung ương và địa phương. Đẩy mạnh công tác đào tạo và có chính sách thu hút, đãi ngộ phù hợp đối với nhân lực y tế làm việc trong lĩnh vực lão khoa. Ban hành quy định cho phép mở mã ngành đào tạo chính quy về bác sĩ lão khoa, cử nhân điều dưỡng lão khoa, quản lý chăm sóc dài hạn; xây dựng bộ chuẩn năng lực nghề nghiệp quốc gia cho nhân viên chăm sóc người cao tuổi làm cơ sở đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề. Có chính sách ưu tiên đào tạo, phụ cấp đặc thù nhằm khuyến khích cán bộ y tế gắn bó với chuyên ngành này.
Năm là, phát triển công nghiệp dược, dinh dưỡng y học, thiết bị y tế và công nghệ hỗ trợ phục vụ người cao tuổi. Khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư nghiên cứu, sản xuất thuốc, thực phẩm chức năng, sản phẩm dinh dưỡng y học dành riêng cho người cao tuổi thông qua chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai. Học tập kinh nghiệm quốc tế về phát triển thị trường dinh dưỡng y học và sản phẩm thực phẩm dễ hấp thu, góp phần thực hiện mục tiêu tự chủ dược phẩm quốc gia. Xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp thiết bị y tế và công nghệ hỗ trợ trong nước; khuyến khích hợp tác giữa doanh nghiệp, viện, trường để sản xuất thiết bị, như máy trợ thính, xe lăn thông minh, gậy chống đa năng, hệ thống nhà thông minh, rô-bốt chăm sóc. Thúc đẩy hợp tác công - tư để đưa sản phẩm này vào danh mục chi trả bảo hiểm y tế hoặc gói dịch vụ chăm sóc, giúp người dân dễ tiếp cận.
Sáu là, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Ưu tiên nguồn lực cho chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế, tập trung phát triển nền tảng y tế từ xa, hồ sơ sức khỏe điện tử liên thông toàn quốc, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong sàng lọc, chẩn đoán sớm bệnh lý phổ biến ở người cao tuổi, như sa sút trí tuệ, Parkinson, tim mạch... Tăng cường hợp tác giữa viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp trong nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thiết bị y tế thông minh, công nghệ hỗ trợ phù hợp với điều kiện và khả năng chi trả của người dân Việt Nam.
Việc triển khai đồng bộ, hiệu quả giải pháp trên sẽ góp phần hình thành và phát triển kinh tế bạc trong lĩnh vực y tế - một trụ cột mới của phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn già hóa dân số nhanh hiện nay./.
----------------
(1) Xem: Nghị quyết số 72-NQ/TW, ngày 9-9-2025, của Bộ Chính trị, “Về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân”, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/nghi-quyet-72-nq-tw-cua-bo-chinh-tri-ve-mot-so-giai-phap-dot-pha-tang-cuong-bao-ve-cham-soc-va-nang-cao-suc-khoe-nhan-dan-119250912060746502.htm
(2) Xem: Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam: “Già hóa dân số”, https://vietnam.unfpa.org/vi/topics/gi%C3%A0-h%C3%B3a-d%C3%A2n-s%E1%BB%91
(3), (4) Xem: Cục Thống kê, Bộ Tài chính: “Xu hướng già hóa dân số nhanh ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp”, https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/xu-huong-gia-hoa-dan-so-nhanh-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap/
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm