Phát triển du lịch biển ở Việt Nam - tiềm năng và thách thức
TCCS - Phát triển du lịch biển, đảo được xác định là một chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Là quốc gia có nhiều tiềm năng, lợi thế về biển, đảo, Việt Nam cần có giải pháp phù hợp để du lịch biển, đảo được quy hoạch, tổ chức chuyên nghiệp, bền vững, đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế, thu hút đông khách du lịch, qua đó thúc đẩy nhiều ngành kinh tế, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của người dân ở các địa phương ven biển.
Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.260km, hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ, khoảng 125 bãi biển, nhiều bờ cát trắng và vịnh biển hoang sơ. Đó chính là tiềm năng lớn để phát triển du lịch và dịch vụ biển.
Số liệu báo cáo của Tổng cục Du lịch Việt Nam cho thấy, trong 10 năm trở lại đây, thị trường khách du lịch quốc tế đến Việt Nam nói chung và đến vùng ven biển nói riêng đã thay đổi căn bản. Nếu như trước năm 2015, khách du lịch chủ yếu đến từ các nước Đông Âu thì nay là khách đến từ nhiều nơi trên thế giới: Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philippinnes, Pháp, Đức, Hà Lan, Anh, Ý, Thụy Điển, Mỹ, Canada...
Theo báo cáo mới nhất của Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam, tổng lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam 10 tháng đầu năm 2025 đạt 17.168.498 lượt khách, tăng 21,5% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó có nhiều khách lựa chọn du lịch biển, đảo. Riêng tháng 10-2025, con số này đạt 1.732.942 lượt khách, tăng 11,3% so với tháng 9-2025, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2024. Quảng Ninh là địa phương có thế mạnh về du lịch biển, đảo. Giai đoạn 2020 - 2024, địa phương này đón tổng số 59,34 triệu lượt khách, trong đó có 6,5 triệu lượt khách quốc tế, tổng thu từ hoạt động du lịch đạt trên 113.310 tỷ đồng. Đóng góp của GRDP du lịch vào GRDP của Quảng Ninh hàng năm từ 5,6% - 9,64%.
Năm 2019, dịch bệnh COVID-19 bùng nổ trên phạm vi toàn cầu, tác động mạnh mẽ đến ngành du lịch thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, khi dịch bệnh được kiểm soát, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã có nhiều biện pháp để phục hồi, phát triển du lịch trong trạng thái bình thường mới. Nhờ đó, số lượng khách du lịch nội địa và quốc tế tăng lên, trong đó có du lịch biển, đảo.
Đơn cử như tỉnh Quảng Ninh, năm 2020, toàn ngành du lịch chỉ đón được 8.848.000 lượt khách du lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng (giảm 37% so với năm 2019); trong đó, số lượt khách du lịch quốc tế sụt giảm mạnh, chỉ còn 540.000 (giảm 91% so với năm 2019) và 8.308.000 lượt khách du lịch nội địa. Năm 2021, Quảng Ninh chỉ đón được 4.384.000 lượt khách du lịch (giảm 69% so với năm 2019); trong đó, khách du lịch quốc tế chỉ khoảng 50.000 lượt (giảm 99% so với năm 2019), khách du lịch nội địa đạt 4.334.000 (giảm 48% so với năm 2019). Nhưng đến giai đoạn 2022 - 2023, ngành du lịch Quảng Ninh đã có bước phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2022, tổng số lượt khách du lịch đạt 11,6 triệu (tăng 164,6% so với cùng kỳ); trong đó, khách quốc tế đạt 304.000 lượt. Năm 2023, tổng khách du lịch đạt 15,56 triệu lượt (tăng 11% so với năm 2019); trong đó, khách quốc tế đạt 2,15 triệu lượt. Năm 2024, tổng khách du lịch đến Quảng Ninh đạt trên 19 triệu lượt (tăng 36% so với năm 2019); trong đó, khách quốc tế đạt 3,5 triệu lượt. Các sản phẩm, dịch vụ du lịch biển Quảng Ninh đang khẳng định được vị trí của mình với số lượng sản phẩm khá đa dạng, đã có sự liên kết để phát triển các sản phẩm đẳng cấp, chất lượng cao như các sản phẩm du lịch tàu biển, du thuyền trên vịnh. Ngoài ra, sự kết hợp giữa trung tâm du lịch biển Hạ Long với các địa phương lân cận như Vân Đồn, Cô Tô, hay vịnh Bái Tử Long đã hình thành các sản phẩm du lịch, dịch vụ biển cao cấp và độc đáo, như khu giải trí phức hợp có casino ở Vân Đồn, trung tâm du lịch sinh thái biển đảo ở Cô Tô, Vân Đồn...
Số liệu báo cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại hội thảo "Phát triển du lịch biển, đảo Việt Nam - thời cơ, thách thức và giải pháp" diễn ra cuối năm 2022 cho thấy, các hoạt động du lịch biển, đảo chiếm khoảng 70% hoạt động của ngành du lịch Việt Nam. Hoạt động du lịch biển, đảo thời gian qua được đẩy mạnh, giúp Việt Nam hình thành đa dạng các loại hình sản phẩm du lịch, thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch, tạo đà tăng trưởng kinh tế cho các điểm đến du lịch, cho các địa phương và kinh tế quốc gia; từng bước nâng cao đời sống, cải thiện thu nhập và phúc lợi cho cộng đồng cư dân ven biển; kích thích sự phát triển của kết cấu hạ tầng vùng ven biển, làm thay đổi mạnh mẽ diện mạo kinh tế - xã hội vùng ven biển. Hoạt động du lịch tại các vùng ven biển góp phần bảo vệ diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng hiện có, giúp sử dụng hiệu quả tài nguyên nước và nguồn lợi thủy sản, giữ vững môi trường sinh thái, hạn chế hiện tượng xâm nhập mặn, từng bước nâng cao môi trường văn hóa du lịch và khả năng thích ứng của cộng đồng trong hoạt động du lịch ở các địa phương.
Tuy nhiên, trong phát triển du lịch biển, đảo hiện nay vẫn đang tồn tại không ít hạn chế, sức cạnh tranh chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường khách du lịch quốc tế. Việc khai thác giá trị tài nguyên cho các hoạt động du lịch biển hiện mới chỉ dừng ở việc khai thác ven bờ; các hoạt động du lịch bổ sung, bổ trợ cho nghỉ dưỡng, tham quan, tắm biển chưa nhiều.
Một trong những tỉnh có tiềm năng và thế mạnh du lịch trong khu vực Đông Bắc Bộ là tỉnh Quảng Ninh với sản phẩm du lịch biển, đảo đang thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Tuy nhiên, sản phẩm, dịch vụ vẫn chưa thực sự khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch biển; chưa có nhiều sản phẩm du lịch dài ngày và độc lập trong các chương trình du lịch Việt Nam của các lữ hành quốc tế. Còn nhiều tài nguyên du lịch biển, đảo có giá trị nổi bật, ngoại hạng nhưng chưa phát triển được sản phẩm du lịch tương xứng, như: bãi biển Trà Cổ, Vĩnh Trung, Vĩnh Thực (Móng Cái); Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng (Vân Đồn); đặc biệt là thắng cảnh độc đáo của vịnh Bái Tử Long và Cô Tô vẫn chưa thu hút được những nhà đầu tư có uy tín, tiềm lực và những thương hiệu du lịch lớn đầu tư, phát triển các sản phẩm du lịch cao cấp xứng tầm...
Du lịch biển Việt Nam cũng đối mặt với vấn đề năng lực cạnh tranh, chẳng hạn như chưa có được đội tàu du lịch biển đẳng cấp hàng đầu đủ sức cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng như các cảng tàu du lịch còn rất thiếu cùng những bất cập về môi trường, quy hoạch.
Một số địa phương còn tồn tại việc chồng lấn, xung đột không gian lãnh thổ của một số ngành kinh tế khác nhau trong quá trình khai thác, gây ra các hệ lụy về môi trường và nguy cơ phát triển thiếu bền vững. Chính quyền địa phương còn chưa chú ý đầu tư, khai thác phát triển du lịch biển, đảo để biến nó trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, trọng tâm… nhằm giải quyết công ăn việc làm và tạo sinh kế, thu nhập cho người dân.
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-12-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về "Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045" đã xác định kinh tế biển là ngành kinh tế ưu tiên hàng đầu. Quyết định số 147/QĐ-TTg, ngày 22-1-2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030” cũng chỉ rõ du lịch biển, đảo là một trong 4 dòng sản phẩm chủ đạo và lợi thế của du lịch Việt Nam.
Để du lịch biển, đảo của Việt Nam phát triển bền vững, tương xứng với tiềm năng, trước hết, cần nghiên cứu, xây dựng chiến lược phát triển du lịch biển, đảo xanh gắn với phát triển nền kinh tế xanh phù hợp với điều kiện cụ thể, tạo ra nguồn năng lượng điện và nước sạch đủ cung cấp cho các điểm đến; ưu tiên các nguồn năng lượng tái tạo, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là cảng biển du lịch; phát triển phù hợp với nhu cầu của thị trường, đồng thời dành không gian phát triển cho tương lai. Vấn đề bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên cần được chú trọng. Trong đó, cộng đồng, người dân địa phương được xác định là những chủ thể quan trọng trong phát triển du lịch; gắn phát triển du lịch biển với bảo tồn văn hóa bản địa. Nghị quyết số 36-NQ/TW cũng nhấn mạnh việc phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển; chú trọng công tác giáo dục về biển...
Đầu tư đa dạng hóa các sản phẩm, chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch biển đẳng cấp quốc tế trên cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, phát huy giá trị di sản thiên nhiên, văn hóa, lịch sử đặc sắc của các vùng, miền, kết nối với các tuyến du lịch quốc tế để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của thế giới. Cùng với đó, các thành phần kinh tế cần được khuyến khích, tạo điều kiện để tham gia phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm khoa học, du lịch cộng đồng, xây dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng biển chất lượng cao tại các vùng ven biển.
Đối với các địa phương, cần hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển du lịch tại các vùng biển, đảo và lập kế hoạch phát triển từng đảo phù hợp với chủ trương, chính sách phát triển du lịch chung của quốc gia theo hướng tăng trưởng xanh. Hạ tầng giao thông kết nối đa phương thức, kết nối liên vùng và khu vực cần được tập trung đầu tư. Một số địa phương nghiên cứu đầu tư cầu cảng tàu khách quốc tế chuyên biệt bảo đảm theo quy hoạch tổng thể, đô thị hóa vùng ven biển và hải đảo.
Du lịch biển, đảo đặc biệt được chú trọng phát triển ở những địa bàn có nhiều tiềm năng và lợi thế về vị trí địa lý. Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23-11-2022, của Bộ Chính trị, về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đưa ra mục tiêu phát triển tỉnh Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch kết nối với khu vực và thế giới, là trung tâm công nghiệp văn hóa với những khu nghỉ dưỡng cao cấp có hệ thống cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại; có sản phẩm du lịch đa dạng, đặc sắc, chất lượng cao, thương hiệu mạnh và sức hấp dẫn toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao, liên kết với các hãng hàng không, tàu biển, các tập đoàn du lịch hàng đầu quốc tế. Đây là mục tiêu rất lớn, thể hiện vai trò quan trọng của tỉnh Quảng Ninh trong việc thúc đẩy liên kết quốc tế và khu vực, góp phần phát triển du lịch nói riêng, kinh tế - xã hội nói chung.
Với lợi thế về vị trí địa lý, Việt Nam nói chung, Quảng Ninh nói riêng có thể trở thành trung tâm kết nối du lịch tàu biển trong khu vực và trên thế giới. Đề án phát triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 cũng đã xác định các giải pháp cụ thể như: cải thiện chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ cao cấp trên bãi biển; hoàn thiện hệ thống cơ sở lưu trú cao cấp ven biển, dịch vụ tại các tổ hợp nghỉ dưỡng cao cấp, cơ sở vật chất phục vụ du lịch chất lượng quốc tế; tăng cường nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp bảo vệ bờ biển, chống sạt lở, biến đổi khí hậu; đa dạng hóa các loại hình giải trí và thể thao biển; tăng cường các biện pháp hỗ trợ và bảo đảm an toàn cho du khách; đào tạo nguồn nhân lực đủ sức khỏe, trình độ trong lĩnh vực thể thao biển; phục hồi giá trị làng chài, làng nghề truyền thống…
Thực tế cho thấy, phát triển du lịch biển, đảo chuyên nghiệp, bền vững đã và đang được các quốc gia có lợi thế về biển, đảo quan tâm, khai thác, coi đó là một chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xu hướng phát triển các sản phẩm du lịch đa dạng, hấp dẫn, mang bản sắc riêng, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong và ngoài nước đòi hỏi Việt Nam cần phải có những định hướng và giải pháp phù hợp để phát triển và đưa du lịch biển, đảo trở thành động lực của kinh tế biển Việt Nam; góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển và bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, đảo./.
Khám phá vẻ đẹp hấp dẫn của Bàu Trắng  (28/06/2025)
Xây dựng Khu du lịch quốc gia Mũi Né: Hướng tới trở thành điểm đến hàng đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương  (22/06/2025)
Giữ gìn và phát huy giá trị thương hiệu đặc sản nước mắm Phan Thiết  (14/06/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm