Nhìn lại 35 năm quan hệ Việt Nam - Ô-xtrây-li-a
Ngày 26-02-1973, Việt Nam và Ô-xtrây-li-a chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Qua hơn ba thập kỷ, mối quan hệ ngày càng được củng cố, phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Đây là những nỗ lực ngoại giao của chính phủ hai nước trong việc gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Giai đoạn trước năm 1973, quan hệ Việt Nam - Ô-xtrây-li-a mang đặc trưng của quan hệ quốc tế thời kỳ "chiến tranh lạnh". Những năm 1973 - 1985, mối quan hệ này bước vào giai đoạn thăng trầm do mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế, những thay đổi chính trị ở Ô-xtrây-li-a lúc bấy giờ, vấn đề Cam-pu-chia. Đến năm 1983, với những nỗ lực tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Cam-pu-chia, quan hệ hai nước bắt đầu ấm lên, Ô-xtrây-li-a tái viện trợ nhân đạo cho Việt Nam thông qua Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ của nước này.
Thành công của Hội nghị Pa-ri về vấn đề Cam-pu-chia năm 1991 đã loại bỏ trở ngại cuối cùng trong quá trình Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới của mình. Với chính sách hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế, hướng tới một khu vực ổn định, hòa bình để phát triển kinh tế và tận dụng những cơ hội mới trong sự năng động của khu vực châu á - Thái Bình Dương, Việt Nam và Ô-xtrây-li-a đã đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực như kinh tế - thương mại, đầu tư và viện trợ phát triển. Từ năm 1991 đến nay, quan hệ hai nước phát triển mạnh mẽ, xuất phát từ lợi ích của cả hai bên, Việt Nam và Ô-xtrây-li-a đã tìm thấy những cơ hội tốt đẹp trong phát triển quan hệ song phương.
Quan hệ chính trị - ngoại giao
|
Việc hai nước thường xuyên trao đổi đoàn cấp cao thể hiện mối quan tâm sâu sắc của chính phủ Việt Nam và Ô-xtrây-li-a trong việc tăng cường sự hiểu biết giữa hai dân tộc, góp phần tăng cường xu thế hợp tác và phát triển vì lợi ích quốc gia cũng như vì hòa bình, ổn định ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. |
Đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ hai nước là chuyến thăm Ô-xtrây-li-a của Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào tháng 5-1993. Đây là lần đầu tiên lãnh đạo đứng đầu chính phủ Việt Nam đến thăm Ô-xtrây-li-a sau 20 năm hợp tác. Ý nghĩa lịch sử của chuyến thăm là bằng chứng cho thấy sự thay đổi lớn trong quan hệ song phương giữa hai nước.
Tháng 4-1994, trong khuôn khổ chuyến công du châu Á, Thủ tướng Pôn Ket-ting đã tới thăm Việt Nam. Điều này chứng tỏ Ô-xtrây-li-a đã nhận thấy vai trò quan trọng của Đông - Nam Á nói chung và của Việt Nam nói riêng đối với sự phát triển kinh tế của mình.
Năm 1995, ngoại giao Việt Nam đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Trong không khí đó, quan hệ Việt Nam - Ô-xtrây-li-a đã được thúc đẩy lên bước tiến mới với chuyến viếng thăm Việt Nam của Toàn quyền Ô-xtrây-li-a Bin Hây-đơ vào tháng 4-1995 và chuyến thăm Ô-xtrây-li-a của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười vào tháng 7-1995.
Trong những năm tiếp theo, quan hệ Việt Nam - Ô-xtrây-li-a tiếp tục được củng cố qua những chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước, như: chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Ngoại giao Alếch-xan-đơ Đao-nơ (tháng 7-1996, 2001, 2003), của Thủ tướng Giôn Hô-uốt (tháng 11-2006). Chuyến thăm Ô-xtrây-li-a của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (1997), Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 3-1999), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (tháng 2-2004), Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà (tháng 3-2004), Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 5-2005).
Cùng với việc củng cố và tăng cường quan hệ đối ngoại, một số thỏa thuận hợp tác quan trọng đã được hai nước ký kết và thông qua: Hợp tác khoa học và công nghệ (9-1992), Hợp tác phát triển (5-1993), Hợp tác trong vấn đề sở hữu trí tuệ (9-1995), Trợ giúp lĩnh vực pháp luật (2-1997), Hợp tác về môi trường (1997), Hợp tác thể thao (1999), Hợp tác giáo dục (1999), Hợp tác quốc phòng (2-1999), Hợp tác về vấn đề nhập cư (2001), Hợp tác về các dịch vụ xã hội (2002), Hợp tác giao thông - vận tải (3-2007).
Ô-xtrây-li-a cũng đã ủng hộ Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc, bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tệ thế giới, gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực như ASEAN, APEC, WTO và bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Các nhà kinh doanh Ô-xtrây-li-a luôn dành được một vị thế ưu tiên trong thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam.
Hợp tác về kinh tế - thương mại
|
Việt Nam và Ô-xtrây-li-a đã thành lập Ủy Ban hỗn hợp về kinh tế, Hội đồng kinh doanh thương mại Việt Nam - Ô-xtrây-li-a nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hai nước hoạt động có hiệu quả. Hai bên cũng đã ký kết nhiều hiệp định như Hiệp định về bưu chính (10-1979), Hiệp định hợp tác kinh tế thương mại (6-1990), Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (3-1991), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (4-1992; bổ sung và sửa đổi vào tháng 11-1996), Hiệp định về dịch vụ hàng không (7-1995), Hiệp định lãnh sự (7-2003). |
Kim ngạch thương mại giữa hai nước trong nhiều năm tăng khá cao, từ 32,3 triệu USD (năm 1990) lên 3,06 tỉ USD (năm 2005), trong đó Việt Nam liên tục xuất siêu sang Ô-xtrây-li-a (năm 2005, Việt Nam xuất sang Ô-xtrây-li-a 2,57 tỉ USD và nhập khẩu 498,5 triệu USD). Năm 2006, tổng kim ngạch thương mại hai bên đạt trên 4,2 tỉ USD (trong đó, Việt Nam xuất 3,2 tỉ USD và nhập 1 tỉ USD). Hiện nay, Ô-xtrây-li-a là đối tác thương mại lớn thứ 7 của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 (sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc). Việt Nam xuất khẩu sang Ô-xtrây-li-a chủ yếu là: dầu thô, thủy sản, hạt điều, đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, cà-phê, hàng may mặc, giày dép, cao-su, gạo...; nhập khẩu chính các mặt hàng như ngũ cốc, tân dược, tàu biển, máy chế biến thực phẩm, thiết bị điện, kim loại, sắt thép, thực phẩm, hóa chất...
Một trong những bước ngoặt trong quan hệ thương mại giữa hai bên được đánh dấu bởi sự kiện chính phủ hai nước ký thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương gia nhập WTO giữa Việt Nam và Ô-xtrây-li-a vào tháng 3-2006. Việc kết thúc đàm phán với Ô-xtrây-li-a - đối tác thương mại lớn của Việt Nam - về việc Việt Nam gia nhập WTO mở ra một thời kỳ mới trong phát triển quan hệ kinh tế và thương mại giữa hai nước. Về tác động của việc ký thỏa thuận này đối với việc thúc đẩy thương mại hai chiều trong thời gian tới, Đại sứ Ô-xtrây-li-a Bin Tuyt-đen đánh giá: Thỏa thuận này sẽ giúp cải thiện khả năng tiếp cận thị trường Việt Nam tại những lĩnh vực mà Ô-xtrây-li-a quan tâm, cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam... Chính phủ Ô-xtrây-li-a sẵn sàng cùng các nhà tài trợ khác hỗ trợ Việt Nam thông qua chương trình "hậu WTO" nhằm giải quyết những yêu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức này.
Về đầu tư, Ô-xtrây-li-a là một trong những nước đầu tư lớn tại Việt Nam: giai đoạn 1995 - 2000, có 5 dự án đầu tư trị giá 127,8 triệu AUD; giai đoạn 2001 - 2005, 9 dự án với tổng trị giá 144,15 triệu AUD. Tính đến tháng 1-2007, Ô-xtrây-li-a đã đầu tư vào Việt Nam 123 dự án với tổng vốn gần 700 triệu USD (vốn thực hiện đạt 347,6 triệu USD), tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến, kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn, giáo dục đào tạo tại một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài và liên doanh.
Một số dự án có vốn đầu tư lớn của Ô-xtrây-li-a đang hoạt động rất hiệu quả tại Việt Nam, đó là: Liên doanh INTELSAT với tổng số vốn thực hiện gần 311 triệu USD, đạt mức doanh thu cao, khoảng 300 triệu USD/năm; Ngân hàng ANZ (dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài); Công ty liên doanh sản xuất thép VINAUSTEEL, với tổng số vốn đầu tư trên 40 triệu USD, đã đi vào hoạt động từ năm 1995, hiện đạt mức doanh thu khoảng 30 triệu USD/năm.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động đầu tư của Ô-xtrây-li-a tại Việt Nam còn gặp một số khó khăn và tồn tại. Cho đến nay, số doanh nghiệp Ô-xtrây-li-a tại các khu công nghiệp và khu chế xuất của Việt Nam còn ít, chỉ khoảng 13 dự án đầu tư đang còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký trên 112,6 triệu USD. Tỷ lệ dự án đầu tư phải giải thể của Ô-xtrây-li-a còn cao với con số 32 trong tổng số 105 dự án có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép, chiếm 30% số dự án và 33% vốn đăng ký. Mặt khác, tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu của các dự án Ô-xtrây-li-a còn quá nhỏ.
Viện trợ phát triển chính thức (ODA). Trong những năm qua, Ô-xtrây-li-a đã viện trợ cho Việt Nam khoảng 700 triệu USD, liên tục tăng mức viện trợ cho Việt Nam qua các năm tài khóa: 2003 - 2005 là 73,7 triệu AUD; 2005 - 2006 tăng lên 77,3 triệu AUD; 2006 - 2007 là 81,5 triệu AUD. Việt Nam hiện là nước đứng thứ ba sau Niu Ghi-nê và In-đô-nê-xi-a trong số các nước tiếp nhận song phương của Ô-xtrây-li-a. Chương trình viện trợ của Ô-xtrây-li-a tại Việt Nam được thực hiện trên các lĩnh vực như phát triển nông thôn, nghiên cứu nông nghiệp, chăm sóc sức khỏe ban đầu, những hoạt động đa dạng của các tổ chức phi chính phủ (NGOs), giáo dục... Đặc biệt là việc thiết kế và xây dựng cầu Mỹ Thuận - công trình lớn và tiêu biểu nhất về sự giúp đỡ của Ô-xtrây-lia đối với Việt Nam (Ô-xtrây-lia viện trợ hai phần ba trong tổng số 91 triệu AUD kinh phí xây dựng cầu). Bên cạnh đó là các công trình khác như dự án cấp nước cho năm thị xã (của Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Trà Vinh và Vĩnh Long), dự án vệ sinh và cung cấp nước sạch cho Đà Nẵng, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn Trà My và dự án phòng chống lũ Bắc Vàm Nao (An Giang).
Trong lĩnh vực y tế, viện trợ của Ô-xtrây-li-a tập trung chủ yếu ở vùng sâu, nông thôn với ưu tiên chăm sóc sức khỏe ban đầu cho phụ nữ và trẻ em, phòng chống sốt rét, giám sát và phòng chống sốt xuất huyết, phòng chống thiếu i-ốt... Hai dự án nổi bật trong lĩnh vực này là dự án ngăn chặn bệnh sốt rét trị giá 12,5 triệu AUD được triển khai ở các tỉnh Bình Định, Quảng Bình, Nghệ An, Yên Bái, Quảng Nam (1995 - 2000); dự án chăm sóc sức khỏe ban đầu cho phụ nữ và trẻ em trị giá 15 triệu AUD có thời hạn bốn năm và kết thúc vào cuối năm 2002.
|
Kim ngạch thương mại Việt Nam - Ô-xtrây-li-a tăng khá cao, từ 32,3 triệu USD (năm 1990) lên 3,06 tỉ USD (năm 2005), năm 2006 đạt trên 4,2 tỉ USD. Hiện nay, Ô-xtrây-li-a là đối tác thương mại lớn thứ 7 của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 (sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc). Tính đến tháng 1-2007, Ô-xtrây-li-a đã đầu tư vào Việt Nam 123 dự án với tổng vốn gần 700 triệu USD. Ô-xtrây-li-a đã viện trợ phát triển chính thức cho Việt Nam khoảng 700 triệu USD, trong đó tiêu biểu là việc thiết kế và xây dựng cầu Mỹ Thuận với số tiền viện trợ hai phần ba trong tổng số 91 triệu AUD kinh phí xây dựng cầu. |
Đối với việc hỗ trợ về quản lý nhà nước, Ô-xtrây-li-a hướng tới hai mục tiêu: tăng cường môi trường quản lý lĩnh vực tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hòa nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Giai đoạn 2002 - 2006, Ô-xtrây-li-a hỗ trợ 10 triệu USD cho Việt Nam nhằm tăng cường những hoạt động hiệu quả của chính phủ, đóng góp cho công cuộc giảm nghèo và phát triển lâu dài của Việt Nam.
Trong những năm 2001 - 2005, chính phủ Ô-xtrây-li-a đã chú trọng đến các dự án hỗ trợ phát triển kinh tế, bao gồm: dự án 10 triệu AUD cho nhu cầu xây dựng năng lực trong quản lý hành chính của Việt Nam (2002 - 2004), dự án 6 triệu AUD dành cho quỹ vốn giải quyết việc làm cho người nghèo, dự án 3 triệu AUD hỗ trợ công tác kiểm toán doanh nghiệp nhà nước.
Hợp tác giáo dục - đào tạo
Giáo dục là một trong những lĩnh vực hợp tác không thể thiếu trong quan hệ song phương giữa Việt Nam - Ô-xtrây-li-a trong suốt 35 năm qua. Hiện nay, Ô-xtrây-li-a là thị trường dẫn đầu về cung cấp dịch vụ giáo dục tại Việt Nam, với hơn 4.000 sinh viên Việt Nam sang học tại Ô-xtrây-li-a hằng năm. Ô-xtrây-li-a khẳng định, giáo dục chính là dịch vụ xuất khẩu lớn nhất của Ô-xtrây-li-a sang Việt Nam và hằng năm dịch vụ này đã đem lại gần 100 triệu USD. Đây là sự hợp tác có ý nghĩa rất lớn đối với lợi ích kinh tế cơ bản của cả hai nước cũng như góp phần làm sâu sắc thêm sự kết nối của giới trẻ tài năng của Việt Nam với đất nước Ô-xtrây-li-a, tăng cường năng lực của các nhà hoạch định chính sách, của các thương gia Việt Nam và là nền tảng hợp tác của hai nước trên nhiều lĩnh vực khác.
Hiện nay, Chương trình học bổng phát triển Ô-xtrây-li-a (ADS) là chương trình trợ giúp về đào tạo lớn nhất của chính phủ Ô-xtrây-li-a. Mỗi năm hơn 200 học bổng với tổng trị giá khoảng 19 triệu AUD được cấp cho sinh viên Việt Nam học tập tại các trường đại học của Ô-xtrây-li-a. Ngoài ra, dự án học bổng phát triển của Ô-xtrây-li-a trước khi đi du học, trị giá 11,4 triệu USD trong giai đoạn 2003 - 2008 cũng đã được thực hiện nhằm chuẩn bị cho sinh viên Việt Nam trúng tuyển học bổng có cơ hội lựa chọn những khóa học thích hợp cùng với những hỗ trợ tiếp theo của chính phủ Ô-xtrây-li-a.
Bên cạnh đó, một số trường đại học của Ô-xtrây-li-a như Đại học Xít-ni, Men-bơn, Quyn-xlen, Niu Sao Uên, Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp Quốc Tế (ACIAR) đã thiết lập quan hệ với các trường đại học của Việt Nam nhằm xây dựng các dự án hợp tác nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học. Một minh chứng điển hình cho hợp tác giáo dục giữa hai nước là việc chính phủ Ô-xtrây-li-a ký kết mở trường đại học đầu tiên 100% vốn nước ngoài với chất lượng cao dưới tên gọi Trường đại học RMIT tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. RMIT Việt Nam đã cấp hơn 300 học bổng bao gồm bậc sau đại học như thạc sĩ giáo dục, thạc sĩ nghiên cứu, những khóa học ngắn hạn như tiếng Anh dành cho nhân viên y tế và học bổng bậc đại học về Công nghệ thông tin, thương mại và chương trình tiếng Anh học thuật chuẩn bị cho bậc đại học. Nhiệm vụ của RMIT Việt Nam là tất cả các dự án về nghiên cứu phải thực sự gắn liền với sự phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam và khu vực.
Ngoài quan hệ ở cấp Chính phủ liên bang, Việt Nam còn chú trọng thiết lập quan hệ hợp tác với các tiểu bang của Ô-xtrây-li-a. Tháng 2-2003, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta đã ký hai văn bản thỏa thuận hợp tác với Bộ Giáo dục và Đào tạo Tiểu bang Vích-to-ri-a và Quyn-xlen. Để thực hiện văn bản đã ký kết, chính quyền bang Quyn-xlen đã triển khai dự án xây dựng trường đại học chuyên đào tạo về nghiệp vụ du lịch cho thanh niên các nước Đông - Nam Á tại thành phố Đà Nẵng vào đầu tháng 11-2006. Chính phủ Ô-xtrây-li-a đã hợp tác với Bộ Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đào tạo cán bộ quản lý thông tin. Đây là tiền đề để thành phố Đà Nẵng và bang Quyn-xlen tiếp tục mở rộng các mối quan hệ, hợp tác trong thời gian sắp tới.
Hợp tác an ninh - quốc phòng
Đây là lĩnh vực hợp tác hoàn toàn mới mẻ đối với Ô-xtrây-li-a và Việt Nam. Tháng 2-1999, Tùy viên quân sự Ô-xtrây-li-a được đặt tại Đại sứ quán Ô-xtrây-li-a ở Hà Nội. Tùy viên quân sự Việt Nam bắt đầu nhận nhiệm vụ tại Can-be-ra vào tháng 9-2000. Tháng 3-2000, Lực lượng quân đội Ô-xtrây-li-a và Quân đội nhân dân Việt Nam đã ký thỏa thuận hợp tác 5 năm trong lĩnh vực nghiên cứu phòng chống sốt rét.
Trong chương trình hợp tác về quốc phòng giữa hai nước, hàng chục sĩ quan Việt Nam được gửi sang đào tạo và huấn luyện tại các học viện quân sự Ô-xtrây-li-a. Tháng 6-2000, Chỉ huy trưởng Lực lượng quốc phòng và Đô đốc Hải quân Ô-xtrây-li-a sang thăm Việt Nam. Quan hệ song phương trong lĩnh vực quốc phòng tiếp tục phát triển có lợi cho cả hai bên và cho khu vực.
Về hợp tác trong lĩnh vực an ninh, tháng 6-1998, Văn phòng cảnh sát của Ô-xtrây-li-a được đặt tại Hà Nội nhằm xúc tiến và đẩy mạnh sự hợp tác của hai nước trong các hoạt động phòng chống tội phạm, đặc biệt phía Ô-xtrây-li-a giúp đào tạo nghiệp vụ và cung cấp trang thiết bị cho ngành cảnh sát Việt Nam. Các dự án trong chương trình hợp tác với Việt Nam bao gồm đào tạo tiếng Anh, thiết kế thực hiện các khóa đào tạo phòng, chống ma túy, xây dựng phần mềm dữ liệu và hệ thống thông tin lưu động nhằm ngăn ngừa tệ nạn ma túy...
Trên các diễn đàn khu vực, Việt Nam và Ô-xtrây-li-a đều tham gia và là quan sát viên của Hội nghị hợp tác và xây dựng lòng tin của châu á. Cả hai nước đều mong muốn xây dựng Đông - Nam á trở thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và không có vũ khí hạt nhân.
Triển vọng hợp tác Việt Nam - Ô-xtrây-li-a
Ô-xtrây-li-a là một đối tác lớn, giàu tiềm năng của Việt Nam. Quan hệ giữa hai nước được xây dựng trên cơ sở hợp tác bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với đường lối đối ngoại rộng mở, độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam cũng là một thị trường lớn, một điểm đến hấp dẫn về đầu tư và du lịch đối với Ô-xtrây-li-a.
Đặc biệt khi chính phủ Ô-xtrây-li-a chủ trương hội nhập mạnh mẽ vào châu Á, tham gia tích cực Hội nghị cấp cao Đông Á thì Việt Nam với vai trò thành viên của ASEAN, điều phối viên quan trọng của tiến trình hợp tác Đông Á sẽ có những đóng góp đáng kể. Việt Nam luôn ủng hộ Ô-xtrây-li-a - nước có vị trí địa lý gần gũi, quan hệ hợp tác, phát triển lâu dài với ASEAN và là nước có vị trí quan trọng trong khu vực Đông Á - tham gia vào tiến trình hợp tác Đông Á. Ngược lại, Ô-xtrây-li-a luôn ủng hộ Việt Nam trong các diễn đàn cũng như các tổ chức quốc tế như APEC, WTO.
Hiện nay, hai nước đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như những thách thức như chống tội phạm, phòng chống dịch bệnh, chống nhập cư bất hợp pháp, chống khủng bố... Chúng ta tin tưởng rằng, với truyền thống hữu nghị lâu đời, quan hệ Việt Nam - Ô-xtrây-li-a sẽ ngày càng phát triển tốt đẹp. Hai nước sẽ vượt qua những khó khăn trước mắt, tranh thủ tốt hơn những vận hội đang được mở ra, hợp tác chặt chẽ hơn nữa vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác trong khu vực và trên thế giới.
Huyện Trần Văn Thời tăng cường công tác bảo vệ,  (25/02/2008)
Ông Raul Castro Ruz được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba  (25/02/2008)
Cô-xô-vô: Nghịch lý phát triển và những hệ lụy  (25/02/2008)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm