TCCSĐT - Một hiệp định thương mại song phương thành công khi nó mang đến lợi ích thiết thực cho cả hai phía, việc ký kết Hiệp định BTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là một ví dụ cho sự thành công của một hiệp định thương mại. Kể từ khi Hiệp định BTA có hiệu lực, Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất, tiềm năng nhất nhưng cũng nhiều thách thức nhất đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

Việt Nam liên tục xuất siêu sang Hoa Kỳ

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch thương mại 2 chiều của 2 nước trong giai đoạn từ 2006 - 2009 là 49517,7 triệu USD (trong đó: xuất khẩu là 41174,2 triệu USD; nhập khẩu là 8343,5 triệu USD).

Biểu: Thương mại hai chiều Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2006 - 2009

 

2006

2007

2008

2009

Xuất khẩu

7845,1

10104,5

11886,8

11355,8

Nhập khẩu

987,0

1700,5

2646,6

3009,4

Xuất siêu

6858,1

8404.0

9240,2

8346.4

Riêng năm 2010, theo số liệu của Ủy ban Thương mại Hoa Kỳ (USITC) thì tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đạt 18,494 tỉ USD, tăng gần 19,5% so cùng kỳ năm trước. Trong đó xuất khẩu đạt 14,784 tỉ USD, tăng 19,5%, nhập khẩu đạt 3,71 tỉ USD, tăng 19,4%. Thặng dư thương mại đạt 11,158 tỉ USD, tăng 17,7%. Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên, đứng vị trí thứ 27 trong số các nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ.

Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tập trung chủ yếu ở các nhóm hàng truyền thống. Dệt may vẫn là mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch cao nhất, với mức tăng trưởng khoảng 15,2% so cùng kỳ năm 2009 và đạt 5,759 tỉ USD về giá trị. Đồ gỗ nội thất đã vượt giày dép, vươn lên đứng thứ hai, với giá trị xuất khẩu 1,824 tỉ USD, tăng 31,2% so cùng kỳ. Tiếp đó là các mặt hàng giày dép đạt 1,616 tỉ USD, tăng 22,2%, máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 779 triệu USD, tăng 21,8%, thuỷ sản 646 triệu USD, tăng 23,8%... Như vậy có thể thấy một số sản phẩm như hàng may mặc, giày dép, đồ gỗ nội thất, túi, ví da, ô dù là những sản phẩm có tính cạnh tranh cao trên thị trường. Nhóm hàng công nghiệp có giá trị gia tăng cao như máy móc, thiết bị điện và phụ tùng cũng được xem là nhóm hàng xuất khẩu rất có tiềm năng và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong thời gian tới.

Tuy nhiên bên cạnh đó, có một số mặt hàng sức cạnh tranh còn yếu so với hàng hoá của các quốc gia khác như: dệt kim, đồ may mặc cao cấp, đồ nội thất (bàn ghế)…do chưa đáp ứng được mẫu mã, thị hiếu và chất lượng…

Năm 2011 – Cơ hội và thách thức

Kinh tế Hoa Kỳ vừa trải qua giai đoạn tăng trưởng 6 quý liên tiếp. Quá trình hồi phục của nền kinh tế Mỹ đã tạo ra những tín hiệu khả quan đối với chi tiêu dùng, giúp sức tiêu thụ hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ cải thiện cả đối với nhóm hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp, điều này làm tăng kim ngạch nhập khẩu từ hầu hết các bạn hàng của Hoa Kỳ: Trung Quốc, Ca-na-da, Mê-hi-cô, Đức, Nhật Bản và Việt Nam…Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của Hoa Kỳ năm 2010 đạt khoảng 2.329,6 tỉ USD, tăng 19,48% so cùng kỳ năm 2009. Trong đó nhập khẩu hàng hoá đạt khoảng 1.935,6 tỉ USD, tăng 23,17%; nhập khẩu dịch vụ đạt 394 tỉ USD, tăng 6,4%. Bên cạnh đó, giá nhập khẩu nhiều nhóm mặt hàng cũng tăng. Chỉ số giá nhập khẩu cuối năm 2010 tăng khoảng 3,7% so với cùng kỳ năm 2009, riêng hàng công nghiệp và nguyên vật liệu phi xăng dầu tăng 3%; giá nhập khẩu thực phẩm thức ăn chăn nuôi và đồ uống tăng 2,4%...Dự báo xu hướng này sẽ tiếp tục trong năm 2011. Có thể thấy kinh tế Hoa Kỳ hồi phục được coi là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, tăng kim ngạch và mở rộng danh mục các mặt hàng xuất khẩu thị trường này trong thời gian tới.

Tuy nhiên tốc độ phục hồi của nền kinh tế Hoa Kỳ còn chậm với tỷ lệ thất nghiệp vẫn đứng ở mức cao (khoảng 9,6%) với tổng số người thất nghiệp là 14,7 triệu người. Đây chính là khó khăn đối với việc xuất khẩu vào Hoa Kỳ, bởi Chính phủ Hoa Kỳ sẽ buộc phải đưa ra những chính sách nhằm hỗ trợ sản xuất trong nước, tạo ra việc làm, qua đó sẽ giảm áp lực lên nền kinh tế. Chính vì vậy, sự cạnh tranh giữa những nhà sản xuất nội địa của Hoa Kỳ và nhà xuất khẩu ngày càng gay gắt. Một số nhóm các nhà sản xuất nội địa do lo ngại về sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam (như Hiệp hội sản xuất cá da trơn, nhựa...) đã tiến hành vận động hành lang để tạo thế lực chính trị nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, tạo khó khăn cho một số nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp và rào cản thương mại nhằm bảo vệ sản xuất trong nước (đạo luật Farm Bill, Lacey...). Cũng trong năm 2010, Chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu thực thi sáng kiến xuất khẩu quốc gia với mục tiêu tăng gấp đôi lượng xuất khẩu của Hoa Kỳ trong vòng 5 năm, nhằm hạn chế thâm hụt thương mại với các đối tác thương mại, đặc biệt với các nước châu Á. Với tổng thể nhiều biện pháp từ hỗ trợ tín dụng cho xuất khẩu, xúc tiến thương mại, đào tạo, tăng cường sự hiện diện của các phái đoàn thương mại... sẽ tạo ra sự cạnh tranh rất lớn cho hàng hoá xuất khẩu từ các nước, trong đó, có Việt Nam.

Trong khi đó tình hình kinh tế thế giới đầu năm 2011 có nhiều diễn biến phức tạp, lạm phát tăng; giá nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, giá lương thực, thực phẩm trên thị trường thế giới tiếp tục tăng cao. Những diễn biến này tác động trực tiếp, gây bất lợi cho ổn định kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt với chi phí đầu vào tăng cao, khó khăn tín dụng xuất khẩu, sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng hoá của các nước khác và những rào cản thương mại sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu trong năm 2011.

Có thể đánh giá năm 2011 sẽ tiếp tục là năm đầy thách thức đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Do vậy, về phía Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể và hiệu quả để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu, phát triển sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đàm phán mở cửa thị trường, quảng bá xây dựng hình ảnh quốc gia, đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến thương mại, tăng cường sự hiện diện của các phái đoàn thương mại nhằm bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường này. Về phía doanh nghiệp cần thúc đẩy hơn nữa việc nghiên cứu, xác định khả năng, cải tiến sản phẩm; xây dựng chiến lược dài hạn để tiếp cận và hoạt động hiệu quả tại thị trường Hoa Kỳ, tăng cường tham gia các hội chợ, ngành hàng chuyên biệt tại nước này. Đồng thời, có sự chuẩn bị để đối phó với những vụ kiện có thể xảy ra trong tương lai./.